|
Truyện Họ Hồng
Bàng (Lĩnh Nam chích quái, thế kỷ XV) có chi tiết đáng chú
ý: Lạc Long Quân dạy dân vùng cao xăm mình để tránh bị giao
long làm hại. Con rồng Việt Nam xuất phát cụ thể từ con vật
gọi là giao long/ thuồng luồng. Một số nhà nghiên cứu khẳng
định vật tổ của người Việt là con "cá sấu" (Theo Từ điển Tiếng
Việt của Văn Tân), là con "lân trùng" (rắn có vảy) hay con "giao
long", một loài cá sấu (Ðinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên - Văn
học dân gian VN). Và Nguyễn Minh Hiệu đã chứng minh bằng
nhiều cứ liệu: con rồng Việt chính là con cá sấu, vật tổ chính
của người Việt cổ (tạp chí Khảo cổ học, 1983, số 2). Khởi
đi từ con rồng - sấu, con rồng Việt trong lịch sử đã biến đổi
nhiều do sự tích hợp các yếu tố du nhập từ bên ngoài. |
A. Các dạng Rồng. |
|
1. Rồng - Sấu: . |
|
|
|
Hình khắc trên thạp
đồng Ðào Thịnh
(2000 - 257 tr. CN).
Hình (1. a). |
Hình khắc trên
qua đồng núi Voi
(500 - 258 Tr. CN).
Hình (1. b) |
2. Rồng sấu - Rắn: |
3. Rồng - Rắn với
đầu cá sấu: |
Rồng (đầu là cá
sấu, dưới là rắn cuộn) trên tấm yểm tâm của áo giáp ở Ninh Bình. |
Rìu vai, đồng, thế kỷ V-III trước CN, Ðồng Sơn, BT lịch sử Hà
Nội. |
|
|
4. Rồng Mèo: |
|
Rồng - Mèo là
hình dạng rồng in trên mảnh sành được phát hiện ở Bắc Ninh: đầu
sấu đã biến mất, đầu ngắn hơn và cổ dài, cánh và vây lưng là
những đường vạch dài, râu và lông ở khuỷu chân đã có hình dạng
của con rồng Ðại Việt. |
|
5. Con Rồng thời
Ngô (939 - 965): |
Thể hiện trên một viên gạch tìm thấy ở Cổ Loa, chiều dài chung
có ngắn, thân mèo, vây lưng cá. |
|
6. Rồng - Rắn:
|
Là hình dạng loài rồng nổi tiếng của Thời
Lý (1010 - 1225). Hình (6. a). |
Và Thời Trần (1225-1400). Rồng thời kỳ này
là biểu tượng cho vua, cho sự thịnh vượng. Có điều, con rồng Lý
là rồng-văn, còn rồng Trần là rồng - võ, tức rồng Trần dũng mãnh
hơn rồng Lý. Hình (6. b).
|
|
|
7. Rồng - Ðầu sư tử/
Lân: |
|
Con rồng đời Lê tuy vẫn kế thừa hình tướng của rồng thời Lý -
Trần, nhưng cũng đã du nhập ngoại dạng của rồng phương Bắc: dữ,
uy nghi. Thời Tây Sơn phục hồi hình dạng của rồng đời Trần và Lê
Sơ: thân rồng đẹp, mềm mại và cái đầu dũng mãnh. Ðầu rồng này
giống như hình rồng trên đồng tiến Cảnh Thịnh (1792-1802): đầu
sư tử/ lân. |
|
8. Rồng thời
Nguyễn : |
|
Giai đoạn 1802-1883; sự mới mẻ của nó là đuôi xoắn ốc và toả
nhiều vây dạng đao lửa dài. Rồng thời Nguyễn giai đoạn 1883-1945
biến đổi theo sự suy đổi của nghệ thuật giai đoạn này: mất đi vẻ
tự nhiên và dũng mãnh, trở nên thô cứng và ước lệ. |
|
B. Các
dạng Tiên. |
Chim lạc và Âu cơ: |
Nếu truyện Họ Hồng
Bàng trong Lĩnh Nam chích quái nói về tục vẽ mình theo hình giao
long đã cho thấy người Việt cổ đồng nhất mình với vật tổ giao
long, thì hình người hoá trang/ đội lốt chim trên các trống đồng
đã cho thấy người Việt cổ cũng đồng hoá mình với chim. Giao long
và chim là vật tổ của người Việt cổ (Văn Lang hay Lạc Việt).
Chim thấy trên
trống đồng gồm loại chim bay và chim đứng. Loại chim bay là chim
lạc. Chim đứng trên mái nhà hình thuyền giống chim công, gà và
đa số đứng dưới đất là loài chim nước: cò, bồ nông, xít... |
|
|
|
1. Gà
lôi trên mái nhà sàn |
2. Gà trên mái nhà sàn ở trống Hoàng Hạ |
3. Chim xít |
|
|
|
4. Chim Công
trên trống Ngọc Lũ. |
5. Chim Công trên
trống Miếu
Môn |
6. Cò |
|
|
7. Cò Thìa |
8. Bồ Nông |
Kết hợp
thể "âm dương lưỡng hợp" chim-rồng ở đây là giao long và chim
lạc. Ðó là những biểu hiện đơn nhất ở một số mặt trống đồng (Hoà
Bình, Phú Xuyên) và không thuần nhất, tức chim lạc xen với các
loại chim nước(âu) khác ở một số mặt trống đồng khác. Phải chăng
do hiện tượng không thuần nhất này mà Lạc - Long đã thành Lạc
Long Quân - Âu cơ? Chim-rồng là đề tài còn bảo lưu mãi về sau:
hình in trên viên gạch phát hiện ở chùa Lim trong một ngôi mộ cổ
(TKI, sau CN). |
|
|
Trống đồng Hoà Bình, Hà Sơn Bình |
Trống đồng Phú Xuyên, Hà Sơn Bình |
Cha Rồng - Mẹ Tiên : |
Lạc Long Quân - Âu
cơ ở đây đã là tôn danh: Quân (vua) và Cơ (cũng
gọi là ky: mỹ hiệu của phụ nữ) theo Ðào Duy Anh (Hán Việt
từ điển). ở đây vấn đề cần giải quyết là tại sao "Lạc Long
Quân - Âu cơ" lại trở thành "Cha Rồng - mẹ Tiên"?
Việc xác định tông
tích của Âu Cơ là tiên xuất hiện lần đầu trong Lĩnh
Nam chích quái (thế kỷ XV) tại đoạn đối thoại của Lạc Long
Quân: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thuỷ tộc, nàng là giống tiên,
sống ở trên đất...". Do đó việc giải đáp vấn nạn trên buộc
phải truy cứu các dữ liệu lịch sử-văn hoá của thời đại đó, tức
trong và trước thế kỷ XV: thời Lý - Trần. Cụ thể trong nghệ
thuật đồ tượng Lý -Trần, các công trình nghiên cứu đã cho chúng
ta thấy có rất nhiều phù điêu, hình chạm khắc và tượng tròn (gỗ
và đá) về đề tài "tiên" ở nhiều di tích khác nhau (chùa
Phật Tích, Chương Sơn, Long Ðội, chùa Dâu, chùa Bối, Thái
Lạc...) dưới các tên gọi và chú thích (chưa thật sự chính xác)
là: "tiên nữ/ Apsara", "nhạc công/ Gandharva", "nữ thần chim/Kinnari"...Rõ
ràng đây là kết quả có gốc từ tám loại chúng sanh gọi là "bát bộ
chúng" của Phật giáo gồm: 1. Thiên (Ðêva); 2. Long (Naga); 3.
Dạ xoa (Yasha); 4. Atula (Asura; phi thiên); 5. Ca lâu la
(Garuda: chim thần Kim Sí điểu); 6. Càn - thát bà (Gandharva);
7. Khẩnnala (Kinnara); 8. Ma hầu la già (Mahôraga: đại xà vương).
Trong tám loại chúng này có ít ra bốn loại có thể được coi là
tiên. Hình minh hoạ: |
|
Tiên dâng hoa (Hương thần Grandharva) - vi nóc thượng điện chùa
Thái Lạc
(Hải Hưng)
- Gỗ, TK XIV. |
|
|
|
Tiên dâng hoa (Chùa Thái Lạc) |
Nữ thần Chim (Kinnari), chùa Thái Lạc |
|
Tiên cưỡi rồng - bia Chùa keo, Nam Hà, 1671 |
— Ðêva là thiên, Ðêvi:
thiên nữ: tiên nữ. Xét về hình tướng thì đây là các loại tiên nữ
trang trí mũ miện, đầu tóc mỹ lệ như vũ công, ca công hầu hạ,
tán tụng việc thuyết pháp.
— Atula
là loại phi thiên, thường có hình tướng tiên nhân đang bay lượn
kèm với các dây lụa dài uốn lượn gọi là "phong đai" như vũ công
múa lụa.
— Càn thát
bà là nhạc
thần, hương thần (thần chỉ sống bằng hương thơm). Ðây là
thần Bàlamôn giáo (có đến 6.333 vị); trong kinh Diệu
pháp liên hoa của Phật giáo có bốn loại. ở ấn Ðộ, Càn thát
bà được hiểu là "diễn viên". Về hình tướng có thuyết cho rằng loại
này thân có nhiều lông vũ, nửa ngưòi nửa chim, hình dáng
đẹp. Có thuyết chỉ rõ; thân lộ màu da thịt, tay trái cầm sáo
trúc, tay phải cầm bảo kiếm.
— Khẩnnala,
dịch nghĩa
là nghi thần (đầu có sừng nên khi thấy sinh tâm hoài nghi
vì không giống người). Loại chúng này có biệt tài ca múa giỏi,
chuyên tẩu các bài nhạc nói về đạo pháp. Về hình tướng thường có
một cái trống nằm ngang hay hai cái trống đứng trước mặt, tư thế
là nhạc công chơi trống.
Trong bốn loại tiên
này thì Càn thát bà do có hình tướng người – chim nên dễ
được đồng nhất với Âu Cơ (nói như vậy là xét về lý, còn trong
thực tế về hình tướng cụ thể đều có khả năng tham chiếu cả Atula
và Kanara/Kanari...). Phải chăng đó là cơ sở lịch sử - văn hoá
của thời kỳ đạo Phật là quốc giáo mà tác giả Lĩnh Nam chích
quái đã dựa vào đó mà "tiên hoá" mẹ Âu Cơ, tức chim đã được
biến thành tiên. Ðó là nguyên nhân lịch sử mà cụ thể là sự tích
hợp cũ- mới, nội sinh - ngoại sinh để "Lạc Long Quân - Âu Cơ"
thành "Cha rồng - mẹ tiên" đầy thiêng liêng và tự hào đối
với mỗi con dân Việt. |
|