Đất Việt

Đất Việt kính chào bạn đọc .....  Vận động và hổ trợ tinh thần Dân Chủ  Đa Nguyên
   
 

Cụ Huỳnh Thúc Kháng và dấu tích

 

của đảo Hoàng Sa

 

  Phan Triệu Cát

   
 

 

Thác Bản Giốc

 

 

 

Trong những năm gần đây, người Việt khắp năm châu đều hay tin lănh thổ của chúng ta bị ngoại banh xâm chiếm, đó là trường hợp của đảo Hoàng Sa . Đây không phải là lần đầu tiên lănh thổ của chúng ta bị xâm lấn, từ hàng ngàn năm về trước, tổ tiên ta đă anh dũng chiến đấu và hy sinh để chống lại ngoại bang và bảo toàn lănh thổ . Với ư hướng đó tôi xin giới thiệu cùng độc giả bài "Dấu Tích Đảo Tây Sa (Paracels) Trên Lịch Sử Việt Nam và Giá Trị Bản Phủ Biên Tạp Lục của nhà cách mạng lăo thành Huỳnh Thúc Kháng"

Vài nét về cụ Huỳnh Thúc Kháng

Cụ Huỳnh xuất thân từ một gia đ́nh nho học nghèo . Tại đất Quảng Nam giàu truyền thống yêu nước và hiếu học . Cụ sinh năm 1786, năm 1900 cụ đổ đầu kỳ thi hương, 1901 cụ đổ đầu kỳ thi Hội . Cụ nổi tiếng là một trong "Tứ Hổ" (1) tại đất Quảng . Học giỏi, đổ cao, danh tiếng lừng lẫy nhưng cụ không ra làm quan với triều đ́nh phong kiến và bù nh́n nhà Nguyễn . Cụ kết bạn với những người tài giỏi và cùng chí hướng như Phan Châu Trinh, Trần Quư Cáp . . .là những người đă thấy rơ chế độ phong kiến, suy tàn, và phản động . Các phong trào Duy Tân tại đất Quảng Nam để mở mang dân trí song song với các cuộc vận động của cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du . Nhưng đối với bọn thực dân Pháp và tay sai đó là cái gai trước mắt, chúng không thể để yên cho phong trào phát triển mạnh . Nhất là khi phong trào này đă ảnh hưởng mạnh mẽ đưa đến phong trào chống thuế lan mạnh tại các tỉnh miền Trung năm 1908, đă làm cho bọn thống trị điên đầu và cuối cùng chúng phải đàn áp đẫm máu. Hàng ngàn người chết và một số không ít bị đầy đi biệt xứ . Nguyên nhân chính của biến cố này là sưu cao thuế nặng, nhân dân ta lúc bấy giờ bị bốc lột tận xương tủy bởi thực dân Pháp . Nhân vụ này, cụ Huỳnh bị đầy ra côn đảo 13 năm (1908-1921) cụ đă chịu mọi h́nh phạt, tra tấn cực h́nh, gông xiềng, cấm cố v́ tội:"Thông đồng với người bội quốc là Phan Bội Châu". Nhưng cái ư chí sắt đá của cụ vẫn không lay chuyển, cụ vẫn tin tưởng và bất khuất"

Dù đến lúc núi sập 
Biển lôi 
Tấm ḷng vàng tạc đá vẫn chưa ṃn 
Trăng kia khuyết đó lại tṛn

Cụ xem nhà tù như một trường dạy tranh đấu:

Tính gừng quế, càng già càng mănh liệt Trải đường dài mới biết ngựa hay Thân c̣m, tâm huyết c̣n đầy

Trong những năm tù ngoài việc rèn luyện ư chí, trong một điều kiện rất khó khăn, cụ đă tự học thông thạo tiếng Pháp, nhờ đó cụ có thể hiểu rơ nền văn hóa của nước Pháp . Từ đó, giúp cụ rất nhiều trong việc dùng ng̣i bút để tiếp tục cuộc tranh đấu ôn ḥa của cụ

Sau khi từ chức viện trưởng Viện Dân Biểu Trung Kỳ (1926-1928) cụ thấy không thể cộng tác với Pháp trong việc mưu cầu độc lập cho quốc gia v́ dă tâm của thực dân Pháp . Và đây là một kinh nghiệm xương máu có dịp cho cụ suy nghĩ trong việc tranh đấu ở nghị trường khi người dân không có thực quyền .

Tờ báo Tiếng Dân được ra mắt độc giả ngày 10 tháng 8 năm 1927. Trong ḥan cảnh lịch sử khó khăn đó, trong lời phi lộ của báo Tiếng Dân cụ đă viết"Nếu không có quyền nói tất cả những điều mà ḿnh muốn nói, th́ ít ra giữ những quyền không nói những điều người ta ép buộc nói", đă nói lên trạng khả năng của cụ có thể làm trong giai đoạn này . Cụ đă gặp bao nhiêu khó khăn, do thực dân Pháp và tay sai tạo nên, và cuối cùng việc đến ắt phải đến, tờ Tiếng Dân bị đ́nh bản và cụ lui về đời sống bế tắc cô quạnh . Ngày lui tới tṛ chuyện cùng "Ông Già Bến Ngự" hai vị cách mạng lăo thành yêu nước với một tâm trạng"

"Những tưởng anh em đầy bốn biển 
Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian Sống xác thừa, mà chết cũng xương tàn Câu tâm sự gởi chim ngàn gió biển" của cụ Phan Bội Châu .

Trên mười mấy năm nay, ở giữa chỗ trời gai đất góc Dày mặt bùn đen, một phường say ngủ Lứa có hai lăo bạc đầu Cóđôi bạn khỏi lẻ lôi Sớm chiều cùng qua lại nhau Mỗi lần nhắc lại chuyện cũ là mơ tưởng đến xứ Bồng Lai . . .của cụ Huỳnh Thúc Kháng không kém phần cảm động . Nhưng trong hoàn cảnh nào đi nữa ḷng tin vào tương lai và sức mạnh đấu tranh không ngừng của cụ cho đến hơi thở cuối cùng, vào ngày 21 tháng 4 năm 1947 tại Quảng Ngăi . Chúng ta đă biết sự nghiệp cách mạng của cu Cụ đă gặp rất nhiều thất bại, nhưng ḷng cụ bao giờ cũng giữ một niềm tin, và một tấm ḷng tranh đấu không ngừng . Ngoài ra, cụ c̣n được biết như một nhà văn, nhà khảo cứu và để bạn đọc hiểu rơ hơn trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, như ngày nay chúng tôi xin giới thiệu về bài viết của cụ .

Dấu tích đảo Tây Sa (Parasels) trong lịch sử Việt Nam ta và giá trị bản "Phủ Biên Tạp Lục"

Như trong bài báo Tiếng Dân số trước đă nói, đảo Tây Sa là mấy ḥn đảo con con làm nơi trú cho loài chim biển ở ngoài biển khơi, không ai cần để ư đến, mà nhân cuộc Trung Nhật chiến tranh trở nên một vấn đề nghiêm trọng trên trường quốc tế, rơ là một điều không ngờ . . .Th́ nay chúng ta lại phát kiến một điều không ngờ nữa là một mớ sách chữ Hán của tiền nhân ta trứ thuật, lâu nay đă bỏ xó, lề hư b́a nát, phần đông, nhất là bạn thanh niên, cho đó là một thứ học mượn, thứ chữ chết, không cần đếm xỉa đến, nay nhân vấn đề đảo Tây Sa, trở thành món tài liệu rất quư giá có quan hệ đến công pháp quốc tế không phải là ít .

Theo các báo cáo ta gần đây sưu tập các tài liệu về đảo Tây Sa để chứng minh th́ đảo ấy là phần sở hữu của nước Nam ta, v́ chính người Nam đă chiếm trước hết và đă kinh dinh các công cuộc ở đảo ấy .

Theo các sách có nói đến đảo Tây Sa mà các báo-trừ báo Tây-đă dẫn chứng, nhất là báo Tràng An dẫn được nhiều điều hơn, ta thấy:

a. Phủ Biên Tạp Lục của cụ Lê Quư Đôn cuối đời Lê . 

b. Đại Nam Nhất Thống Chí cả bản trước và bản của cụ Cao Xuân
Dục mới soạn lại.

c. Bản Triều Chính Yếu Thực Lục cả tiền triều và triều Minh Mạng.

d. Lịch Triều Hiến Chương của cụ Phan Huy Chụ Đó là những sách mà các báo đă dẫn. Nếu như đảo Tây sa tức là"Hoàng Sa" và"Vạn Lư Trường Sa" như đă nói ở trên, th́ c̣n mấy sách nữa chép là:

e. Cống Hạ Kư Văn của cụ Dương Quốc Dung dưới mục"Phong Vực" "Ngoài phần biển Quảng Ngăi có đảo Hoàng Sa từ cửa biển Sa Kỳ đi hướng đông, ba ngày đêm th́ đến nơi, cồn cát nơi đứt nơi nối, vài mươi dăm không sao kể hết, dấu người ít đến" 

f. Mán H́nh Thi Thoại và Đông Hành Thi Thuyết của cụ Lư Văn Thức;năm  Minh Mạng thứ 12 (1831) cụ đi Phúc Kiến có chép:

"Thuyền đi về bến hữu, nơi gọi là "Vạn Lư Thạch Đựng" đều là cát vàng (Hoàng Sa) cũng gọi là "Vạn Lư Trường Sa" Cụ có bài thi có câu:

Vạn Lư Trường Sa bí tuyệt hiểm Thất châu cuồng lăng nhạ oan hào

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832) cụ lại đi Lữ Tống (Lucon) đảo Phi Luật Tân hồi đó thuộc Tây Ban Nha. Thuyền từ Quảng Ngăi đi theo hướng đông, bị gió lạc vào vùng Vạn Lư Trường Sa cụ có bài dẫn nói: Một cḥm đảo cát nổi lên giữa biển, phía Tây là biển Quảng Ngăi phía Bắc tiếp biển Quảng Đông, Phúc Kiến, phía đông tiếp biêủn Lữ Tống, phía Nam th́ kéo dài . . . là một nơi tuyệt hiểm có thuyền bẹ

g. Bản Biển Sử Cương Giám của Nguyễn Thông, đại lược cũng thuộc như trên.

Giá trị bản sách Phủ Biên Tạp Lục

Trong những sách kể trên, th́ bản Phủ Biên Tạp Lục của cụ Lê Quư Đôn là nói rơ hơn hết . Trước hết nơi phủ Quảng Ngăi, huyện B́nh Sơn, làng An B́nh gần biển, ngoài biển có nhiều ḥn đảo, trong đó có đảo Hoàng Sa dài ước 30 dậm . Rồi kể vật sản: Yến Sào, chim biển, ốc taive, xà cừ, đồi mồi, hải sâm .. . Sử chép truyện Chúa Nguyễn có đặt đội Hoàng Sa 70 suất thay phiên ra đảo lấy hải vật, đi ba ngày đêm đến đảo, mỗi năm tháng 3 đi, tháng 8 về . Cụ lại có chép sao biên bản của Thuyên Đức Hậu là cai quản đội Hoàng Sa ấy, kể rơ mỗi năm
nhặt được thiếc mấy cân, vàng mấy hốt, đồi mồi, yến sào mấy cân, lại có khi nhặt được đồng khí, súng tiền . . .
(đồ sau này có lẽ là đồ của những chiếc tàu ch́m đó đây). Đến giá trị nhất là tờ công văn của Quan Chánh Đường quan huyện Văn Xương, phủ Huỳnh Châu (Trung Hoa) gởi sang Chúa Nguyễn ở Thuận Hóa . Khi hộ tống hai tên trong đội Hoàng Sa bị phiêu bạc sang đây, mà trong "Thuận Hóa" công văn có chép: "Năm Càn
Long thứ 19 (1754, triều Hiến Vơ năm thứ 17) tên quân đội Cát Vàng, người làng An B́nh, huyện Chương Mỹ, phủ Quảng Ngăi, nước An Nam, ngày tháng 7 đi ra Vạn Lư Trường Sa t́m nhặt các hải vật, tám tên lên bờ t́m nhặt để hai tên lại giữ thuyền, rủi bị trận bảo, đứt dây neo, thuyền trôi dạt vào băi biển Tàu, viên huyện Văn Xương cho thuyền về xứ, chúa truyền Nguyễn Thuận Hóa cai bạ Thức Lượng Hầu làm thư phúc đáp.

Đọc đoạn đại lược chép trên, thấy công trứ tác của cụ Lê Quư Đôn thật không phụ cái tiếng "tài cao học rộng" và
sách"Phủ Biên Tạp Lục" giá trị đáng quư là dường nào! (Bản này không chỉ kể chuyện trên, nào việc Xiêm
La, Chân Lạp . . .cho đến làng xă, thuế khóa, vật sản, đường thuỷ, đường lục, cầu trạm, quán xá đều có chép) Trong nước có bản sách quư hóa như vậy mà chỉ có bản chép bằng tay, tam saothất bản, rồi gác vào xó kín, không đem ấn hành và công bố sách độc, sách dạy; đến ngày nay nhân dịp có việc mới nhắc đến! để mong góp chút ánh sáng nhỏ nhoi truyền đến người đọc . Như thế trách nào dân không ngu . Rơ thẹn với hai chữ"văn hiến" biết bao .

Kết luận:

Vấn đề "quốc tịch đảo Tây Sa" này, nếu trên sân khấu quốc tế, nhận chủ quyền sở hữu của những ai chiếm trước và có tài liệu làm chứng hẳn hoi, như luật điền thổ, khai tài, khai lập nghiệp ở xa, bằng theo lộ tịch và phân thư chúc từ của tiền nhân để lại, tưởng không có nước nào có chứng cứ đầy đủ như nước ta. Quyền ngoại giao ta ngày nay đă phó thác cho nước Pháp, quyền này đă có nước Bảo Hộ đối phó . Kư giả viết bài này cốt có hai điều cảm khái:

-Triều Nguyễn ta từ đời Minh Mạng về trước rất lưu tâm về mặt quốc pḥng, không chỉ về mặt biên giới lục địa như Xiêm La, Cao Mên, săn sóc mở mang, mà về đường hải phận thường có thuyền quan phải đi khảo sát và giao thiệp với các xứ ngoài hơn (đời ấy gọi là Dương Đ́nh Hiệu Lực) . Từ đời Tự Đức về sao lại bỏ luống, chỉ đua ngâm thơ .

-Những sách tiền nhân ta viết bằng chữ Hán, trong đó có nhiều sách giá trị quư báo, có quan hệ đến quốc gia và xă hội rất đáng biểu dương, không phải đáng mạt sát hết như phần đông các thiếu niên đă tưởng lầm . Nhân vấn đề đảo Tây Sa này, may ra những sách có giá trị trong kho Hán học bỏ xó kia, có một vài thứ đă chết mà đă sống lại chẳng?

Tiếng Dân ngày 23-7-1938 Huỳnh Thúc Kháng

Chú thích: (1) Bốn người nổi tiếng nhất tại Quảng Nam thời bấy giờ: Trần Quư Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đ́nh Hiển và Phạm Liệu .

   

  Phan Triệu Cát