|
Trên
báo Công An số thứ bảy, ngày 9 tháng 7 năm 2002,
người
ta thấy xuất hiện một bài báo nhan đề
Ải
Nam
Quan và Những Kẻ "Ðốt Ðền" với
nội dung chế
diễu
khá yếu ớt các lời cảnh báo của Giáo Sư
Trần
Khuê về việc Hà nội nhượng đất biên
biới
cho
Bắc Kinh. Nhưng điều đáng chú ý là sự
kiện đây
là bài báo trên giấy in đầu tiên bàn về chủ
đề
biên giới cho người trong nước đọc,
nếu
không
kể những đoạn tin rất vắn tắt về
việc ký
kết
đã tung ra trước đâỵ Các bài phỏng
vấn dài,
cho
đến nay, chỉ được một nhân vật
đại diện cả
ÐCSVN
trả lời là Thứ trưởng CS Lê Công Phụng và
chỉ
lên tiếng trên các trang báo điện tử nhắm vào
độc
giả hải ngoại mà thôi. Sự kiện này cho
thấy
sự
thất bại của hàng chục ngàn buổi học
tập chính
trị
của Ðảng cho cán bộ đảng viên và quân đội
vẫn
không đè bẹp được những bàn tán trong
nội
bộ
và các biện pháp bưng bít thông tin ngặt nghèo
vẫn
không bịt được các xôn xao ngày một rộng
trong
quần chúng.
Ðiều
đáng chú ý kế tiếp về bài báo kể trên là
tên
của tác giả - Trần Bạch Ðằng. Dĩ nhiên không
ai
có thể chứng minh dứt khoát được tác
giả này
chính
là nhân vật Trần Bạch Ðằng có thời làm
tới
Bí Thư Thành Ủy Sài Gòn hay không, nhưng xét theo
cách
hành xử thông lệ trong các chế độ cộng
sản
xưa
nay, người ta không thấy trên các phương
tiện
truyền
thông của nhà nước có ai dám lấy bí danh
của
các cán bộ Ðảng cao cấp, dù là các "Ngài"
đang
được
Ðảng ưu ái hay đã bị thất sủng. Thật
vậy,
chẳng
ai được phép ký trùng tên với Trường Chinh,
Nguyễn
Ðức Bình, hay ngay cả Trần Xuân Bách, Nguyễn
Hà
Phan. Do đó có xác suất cao chỉ có một Trần
Bạch
Ðằng, một cây súng lớn được xem là
biết
rõ
nhân quần tại Sài Gòn suốt từ thời chiến
tranh,
được đưa lên mặt báo lần này để
chế
diễu
giáo sư Hán Việt Trần Khuê, cũng đang trú
ngụ
tại
Sài Gòn, với hy vọng kéo được nhiều người
tin.
Khổ
nỗi, các điểm lý luận trong bài báo không nói
được
gì về ông Trần Khuê mà chỉ toát lên một
Trần
Bạch Ðằng ngu ngơ ngớ ngẩn ... đến
dại
khờ.
Trước hết ông nhập đề bằng một
lời kết
luận
rất kẻ cả và đầy kiến thức rằng
tất cả
những
ai đưa ra vấn đề nhượng đất biên
giới,
không
chỉ riêng Trần Khuê mà còn từ "những cái tên
vốn
nhẵn mặt với dân VN như" Thích Tâm Châu đến
"những
tên lạ hoắc như" Trần Ðại Sĩ, đều
là
những
kẻ bịa đặt. Nhưng vừa đến đoạn
phải
chứng
minh họ bịa đặt điều gì và tại sao ÐCSVN
vẫn
dấu diếm chi tiết về các hiệp ước biên
giới,
đột nhiên Trần Bạch Ðằng trở thành con nai
vàng
ngơ ngác: "Có lẽ cơ quan
thông tin của ta sơ sót
khi không
trình bày rõ trên các phương tiện thông tin
đại
chúng về toàn bộ sự thật, chẳng phải bí
mật
quốc gia gì cả".
Tưởng cần nhắc lại đây là
một
hiệp ước về lãnh thổ và lãnh hải không
những
ràng buộc nhiều thế hệ dân chúng Việt Nam
mà
còn ảnh hưởng lên nhiều nước chung quanh và
các
nước
có quan hệ kinh tế với Việt Nam; riêng hiệp
định
biên giới trên đất liền được ký
kết từ
cuối
năm 1999 và được quốc hội CSVN thông qua
từ
tháng
6 năm 2000 mà đến nay vẫn dấu nhẹm bất
kể
những
đòi hỏi quyết liệt từ trong nước ra
đến
hải
ngoại; thế mà "Có lẽ cơ quan thông tin của
ta sơ
sót"
thì ai mà nuốt nổi ?! Thật khổ, nhìn một
"Cụ"
Cáo đã rụng gần hết lông còn ráng kiểng
chân,
chớp chớp mắt cố giả nai vàng với khách
qua
đường,
người ta không biết nên cười hay tội
nghiệp.
Và
từ điểm này đến cuối bài, người
đọc chỉ
còn
thấy một Trần Bạch Ðằng cố nói theo Ðảng
để
kiếm ăn. Ông nhai lại nhiều điểm mà Lê Công
Phụng
đã nói rồi ... và đã bị đồng bào hải
ngoại
chửi
rồi; chẳng hạn như ông nói: "Bình thường,
không
ít trường hợp, biên giới xê dịch về phía
này,
phía kia thuộc sinh hoạt của cư dân đôi bên
biên
giới, do các quan hệ thậm chí gia tộc".
Chẳng
có
nước nào trên thế giới có chính sách "xê
dịch
biên
giới" đất nước như thế cả.
Chủ trương lùa
dân
qua biên giới để vẽ lại lằn ranh là
những trò
ma
giáo của Bắc Kinh mà chính đảng của ông
Trần
Bạch
Ðằng và ông Lê Công Phụng nguyền rủa không
tiếc
lời suốt thập niên 80 nay đã trở thành
chuyện
"bình thường" chăng? Và cứ bao lâu nữa
thì
ÐCSVN
lại "xê dịch" biên giới tổ quốc
một lần vì
số
dân Tàu tại biên giới chỉ có tăng chứ không
giảm
?
Rồi
cũng như Lê Công Phụng đã thử trước
đây
với
đồng bào hải ngoại, Trần Bạch Ðằng
cố đánh
lạc
hướng cuộc đối chất về những
dấu giếm
trong
việc dâng đất tổ tiên dọc theo cả biên
giới
qua
cuộc tranh luận về vị trí "Ải" Nam Quan.
Nhưng dù
vậy,
những lý lẽ đưa ra càng lúc càng "kém" duyên
và
mất phương hướng. Chẳng hạn như ám
chỉ cả dân
tộc
ta nhận vơ Ải Nam Quan là của mình chỉ vì
một
bài
thơ của Hoàng Cầm. Có ai ngờ danh sĩ Hoàng
Cầm
đã
ảnh hưởng lên nhiều thế hệ Việt Nam trước
cả
khi ông ra đời! Cũng theo Trần Bạch Ðằng,
Ải
Nam
Quan có lần đã bị thực dân Pháp bắn nên nó
phải
là của Tàu vì nếu là của Việt Nam thì quân
Pháp
đã giữ gìn nọ Thật tội cho thực dân Pháp,
họ
nâng niu đất nước này đến thế mà có
ai biết
ơn
họ đâu!
Ðiều
mà ông Trần Bạch Ðằng đắc thắng xem là
một
chứng minh hùng hồn nhất có thể làm cho giáo
sư
Trần Khuê "độn thổ" và cũng là lý
lẽ ông
mượn
của một Việt Kiều tên Hoàng Nguyên Nhuận,
đó
là nội cái tên Ải "Nam" Quan đã cho thấy nó
là
của
Tàu rồi. Vì nếu là của Việt Nam thì tên nó
phải
là Ải "Bắc" Quan mới đúng. Nói một cách
tổng
quát,
theo lý lẽ này thì mọi vật tính từ vị trí
địa
lý của Trung Hoa ra thì đều thuộc về Trung Hoa
cả.
Nếu nói thế thì toàn bộ miền đất có tên
An
Nam
Quốc Vương cũng là đất Tàu chăng? và còn
bao
nhiêu
thứ trong lịch sử nước ta có chữ
"Nam" trong
đó,
kể cả quốc hiệu Việt "Nam" của chúng
ta ngày
nay
? Có mấy ai không biết là từ thế kỷ 17
trở
về
trước, đại đa số dân Á Châu vẫn tin
Thế
Giơi
chỉ bao gồm Trung Hoa ở giữa và một số nước
nhỏ
chung quanh. Mọi vị trí địa lý được
định
hướng
và định tên từ trung tâm tính ra. Cha ông
chúng
ta đón nhận một phần lớn văn minh Trung Hoa
và
cũng chấp nhận cách đặt tên "Toàn Cầu
Hóa"
đó,
nhưng ngừng lại ở điểm này chứ không vì
tên
đặt
mà coi An Nam là đất Tàụ Ðiều rất mỉa mai
mà
chắc ông Trần Bạch Ðằng cũng biết rõ là có
2
quần
đảo mang tên Việt Nam rât rõ, là Trường Sa và
Hoàng
Sa, và một vịnh mang tên Vịnh Bắc Bộ; thế
mà
Ðảng
của ông đã dâng trọn cả 2 quần đảo này
cho
Tàu
suốt từ năm 1958 với văn bản hẳn hoi và
cắt
hơn
11000 cây số vuông vịnh Bắc Bộ cho Tàu chỉ
mới
cuối
năm 2000 đây thôi!
Nói
cho công bằng thì ít ai tin đây là những suy
nghĩ
thật của Trần Bạch Ðằng, một nhân
vật từng
chỉ
huy hoạt động chìm tại Miền Nam trong thời
chiến
tranh và có lúc leo lên đến chính ủy Sài Gòn.
Trong
một số bài báo khác gần đây ông còn ký tên
là
"Nhà Nghiên Cứu Trần Bạch Ðằng" và thường
viện
dẫn dữ kiện từ đủ loại sách báo
ngoại
quốc
về đủ loại quốc gia như Trung Hoa, Nhật
Bản,
Triều
Tiên, v.v... Nhưng cũng chính vì biết được
khả
năng của Trần Bạch Ðằng, người ta
mới càng
thấy
chán ngán cho bản chất quá tồi tàn "chịu nói
càn
để ăn xôi" của một Trần Bạch Ðằng
đã thấm
đòn.
Tưởng cần nhắc lại, vào khoảng đầu
thập
niên
80, những phê bình thẳng thắn của Trần
Bạch
Ðằng
đối với một số lãnh đạo cao cấp và
đường
lối Ðảng đã gây nhiều chú ý, thậm chí
hy
vọng, nơi nhiều người cả trong lẫn ngoài
nước.
Liền
sau đó ông bị thất sủng 5 năm liền. Mãi
đến
năm
1985 ông mới được xuất hiện trở
lại trên
báo
Nhân Dân, trong loạt bài kỷ niệm 40 năm Cách
Mạng
Tháng
Tám. Nhưng cũng từ đó trở đi người
ta chỉ
còn
thấy một máy hát không hồn có tên Trần Bạch
Ðằng
mà bài báo kể trên là một thí du Thế
mới biết không phải ai lớn tuổi đều dám
trở
về với lương tâm của mình. Và thế mới
biết
hiện
tượng một Trần Ðộ dành những năm tháng
cuối
đời mình để nói lên sự thật và đấu
tranh
cho
lẽ phải không phải là chuyện ngẫu nhiên nhưng
đòi
hỏi rất nhiều tiết tháo, tự trọng, và
một
lòng
yêu nước chân thực.
Người
đọc không biết những kẻ "Ðốt Ðền"
trong
tựa
đề bài báo của ông Trần Bạch Ðằng nghĩa
là
gì
và là những ai, nhưng có một người đã
đốt
rụi
lương tâm của chính mình thì họ biết rất rõ.
|