|
1/ Khái-niệm về « quyền chủ-quyền - droit de propriété
» trên biển, tức hải-giới của quốc-gia (nation) Việt-Nam không biết đă xuất-hiện
vào thời-kỳ nào, nhưng theo quan-điểm lịch-sử, nhiều học-giả trên thế-giới
đă công-nhận sự hiện-hữu một « titre propriétaire », một văn-kiện
chứng-nhận quyền chủ-quyền trên biển cả của dân-tộc Việt-Nam, được phân-định
rạch-ṛi theo lối Tây-Phương ở vùng Vịnh Bắc-Việt bắt đầu từ năm 1887.
Việt-Nam là một nước ở phía Đông-Nam Châu-Á, là một « bao-lơn » nh́n ra
Thái-B́nh-Dương. Bờ biển Việt-Nam dài khoảng 2500 cây số, trải từ vĩ-tuyến
8° 30’ đến vĩ-tuyến 23° 16’ Bắc. Phía Đông-Bắc là vịnh Bắc-Bộ, phía Đông
nh́n ra Biển-Đông (Trung-Hoa gọi là Nam-Hải, thế-giới gọi là biển Nam
Trung-Hoa, thuộc Thái-B́nh-Dương) và phía Tây-Nam th́ giáp vịnh Xiêm-La.
Theo GS Charles Fourniau[i], trước năm 1887, Việt-Nam và các nước
chung-quanh, kể cả Trung-Hoa, đă không có một khái niệm về « quyền
chủ-quyền » trên biển. Ông cho rằng : « từ khoảng cuối thế-kỷ thứ 5 đă có
nhiều thương-thuyền đi dọc bờ biển của nước Chàm, biển Đông v́ thế đă có
nhiều thuyền-bè qua lại. Nhưng nếu đi t́m trong sử-liệu của Chàm, của
những thương-buôn Trung-Hoa, của Việt-Nam hay của thương-buôn các nước
Tây-Phương, từ thế-kỷ thứ 18, th́ dường như đă không ghi lại một chi-tiết
nào liên-quan đến khái-niệm chủ-quyền về biển ở Biển-Đông. Người ta cũng
không t́m thấy qua các bản-đồ của Ả-Rập, Bồ-Đào-Nha hay Ḥa-Lan hay trong
những nhật-kư hải-hành, bất-kỳ một h́nh-thức công-bố về chủ-quyền của một
nước nào về Biển Đông, là vùng biển bao-bọc nơi đây. Nếu việc công-bố
chủ-quyền vùng biển này đă có thể xăy ra th́ trong các quyển nhật-kư hải-tŕnh
của các tàu-bè qua lại nơi đây & đă không thể không ghi lại, đặc-biệt
tại vùng cận bờ của Chàm và Việt-Nam, bởi v́ cho đến cuối thế-kỷ thứ 17,
tất cả tàu-bè đi từ Poulo Condor cho đến Quảng-Đông (Canton) đều theo
chung một hải-tŕnh: đi dọc theo bờ biển của hai nước nầy cho đến khoảng
vĩ-tuyến thứ 15, mà không bao giờ mạo-hiểm ra ngoài khơi, v́ họ biết rằng
cách bờ khoảng 200 dặm có một vùng rộng lớn đầy đá ngầm nguy-hiểm.
Việc nầy cho thấy rằng từ thời-kỳ xa-xưa cho đến góc tư cuối của thế-kỷ
thứ 19, giới-hạn lănh-thổ của các xứ trong vùng tiếp-giáp vùng cực Tây của
Biển-Đông, th́ có lẽ ngừng lại ở đường cận-duyên dọc theo bờ biển hay cận
các hải-đảo ».
Nhưng, GS Fourniau cũng ghi-nhận : « cuối thế-kỷ thứ 18, người ta thấy rằng
triều-đ́nh Việt-Nam đă phản-đối việc nhiều nhóm thuyền-bè của Trung-Hoa
cặp bến ở các vùng bờ biển Việt-Nam, thí-dụ như vào năm 1832 vua Minh-Mạng
đă từ-chối sự đề-nghị của chính-quyền Quảng-Đ ông cho phép chiến-thuyền
của Trung-Hoa vào dẹp bọn cướp biển Tàu đóng sào-huyệt trên các vùng biển
Việt-Nam và vào năm 1833 nhà vua cũng ra lệnh cho một nhóm thuyền đánh cá
Trung-Hoa phải rời khỏi vùng Vân-Đồng. Một số các tác-giả v́ thế cho rằng
những nhà cầm-quyền thời đó đă có một khái-niệm rơ-rệt về một hải-giới.
Nhưng cho dầu thế nào, quan-niệm hiện nay của Việt-Nam về một biên-giới
trên biển chỉ có nguồn-gốc mới đây, bắt đầu từ thời-kỳ Pháp-thuộc,
nguyên-thủy du-nhập từ nước ngoài, v́ nó bắt nguồn từ tập-quán luật-lệ của
Tây-Phương. »
Nhưng thực sự có phải v́ tiếp-xúc với phương Tây mà Việt-Nam mới có một
khái-niệm về hải-giới, hay là dân ta đă có sẵn một quan-niệm cá-biệt
Việt-Tộc, như chi-tiết xăy ra năm 1883, chưa được các sử-gia đào sâu v́
thiếu sử-liệu ? Riêng về người Trung-Hoa th́ hầu hết học-giả trên thế-giới
đều công-nhận dân-tộc Hoa là một dân-tộc nông-nghiệp, hướng vô « lục-địa »[ii]
và không có « văn-hóa » về biển. Trong khi đó dân-tộc Việt-Nam, với
truyền-thuyết xâm h́nh giao-long trên người để lặn dưới sông, dưới biển;
hay là những trận đánh với quân xâm-lăng Trung-Hoa, những trận quyết-định
đều là những trận thủy-chiến. Việc nầy cho ta một kết-luận tạm-thời rằng
dân-tộc Việt đă có một thói quen xa xưa sống cận-kề với sóng nước.
Nhưng tóm lại, cho dầu phát-sinh vào thời nào, th́ vào năm 1887 Việt-Nam
đă tiếp-thu một quan-niệm Tây-Phương rạch-ṛi về hải-phận trong Vịnh Bắc-Việt.
Đó là hiệu-quả của Công-Ước 1887.
Công-ước phân-định biên-giới giữa Trung-Hoa và Tonkin (Bắc-Việt) kư ngày
26 tháng 6 năm 1887 mà mọi người thường gọi là công-ước Constans hay công-ước
Bắc-Kinh, thực-tế là biên-bản bế-mạc của công-tŕnh phân-định biên-giới[iii]
trên đất liền. Biên-bản nầy nhằm mục-tiêu giải-quyết những bế-tắt mà hai
Ủy-Ban Pháp và Thanh phụ-trách phân-định biên-giới đă không thể giải-quyết
được trên thực-địa. Những bế-tắt đem lại từ việc hai bên đều giữ nguyên
ư-kiến của ḿnh về số-phận của một số vùng đất cận biên-giới[iv].
Tuy-nhiên, ngoài việc giải-tN 87;a bế-tắt ở những vùng tranh-chấp và
công-nhận những biên-bản phân-định biên-giới cùng bản-đồ đính-kèm do hai
Ủy-Ban Phân-Định kư-kết, biên-bản nầy (hay Công-Ước) c̣n xác-định một đường
“biên-giới”, là kinh-tuyến 105° 43’, ở vùng “cực-đông của Tonkin”. Đoạn
văn liên-hệ nầy nguyên-văn như sau:
“1° Les procès-verbaux et les cartes y annexées qui ont été dressés et
signés par les commissaires français et chinois sont et demeurent
approuvés ;
2° Les points sur lesquels l’accord n’avait pu se faire entre les deux
Commissions et les rectifications visées par le 2e paragraphe de l’article
3 du Traité du 9 juin 1885 sont réglés ainsi qu’il suit :
Au Kouang-tong, il est entendu que les points contestés qui sont situés à
l’est et au nord-est de Monkaï, au delà de la frontière telle qu’elle a
été fixée par la Commission de la délimitation, sont attribués à la Chine.
Les îles qui sont à l’est du méridien de Paris 105° 43’ de longitude est,
c’est-à dire de la ligne nord-sud passant par la pointe orientale de l’île
de Tch’a-Kou ou Ouan-chan (Tra-Co) et formant la frontière, sont également
attribués à la Chine. Les îles Go-tho et les autres îles qui sont à
l’ouest de ce méridien appartiennent à l’Annam.”[v].....
Tạm dịch:
“1° Các biên-bản và các bản-đồ kèm theo đă được các Ủy-Ban Pháp-Trung thiết-lập
và kư tên th́ được công-nhận ;
2° Các điểm mà tại đó hai Ủy-Ban đă không thể giải-quyết và những sửa đổi
chiếu theo phần 2, điều 3, của Công-Ước 9 tháng 6 năm 1887, th́ được giải-quyết
như sau :
Tại Quảng-Đông, hai bên thỏa-thuận rằng những điểm tranh-chấp ở về phía Đông
và phía Đông-Bắc Móng-Cái, những điểm nầy ở phía bên kia của đường
biên-giới đă được ủy-ban phân-định xác-định, th́ chúng được giao cho
Trung-Hoa. Những ḥn đảo ở về phía Đông của đường kinh-tuyến Paris 105°
43’ kinh-độ Đông, có nghĩa là đường thẳng Bắc-Nam đi qua đông-điểm của đảo
Tch’a-Kou hay Ouan-Chan (Trà-Cổ) và tạo thành đường biên-giới, cũng được
giao cho Trung-Hoa. Các đảo Go-Tho và những đảo khác ở về phía Tây của đường
kinh-tuyến nầy th́ giao cho An-Nam.” .....
Bản-đồ[vi] xác-định chủ-quyền các đảo và phân-chia lănh-hải trong vịnh
Tonkin (Bắc-Việt) đính-kèm công-ước:
(H́nh 1)
Ghi-chú trên bản-đồ :
góc trái : signé : Constans – Cachet de la Légation de France à Pékin. Tạm
dịch : Kư tên Constans – Con dấu của Phái-Đoàn Pháp tại Bắc-Kinh.
ở giữa : Le méridien de Paris 105° 43’ qui passe par la pointe orientale
de l’ile Tra-Co, forme la frontière à partir du point où s’est arrêté le
traité de la convention. Tạm dịch : Đường kinh-tuyến Paris 105 độ 43 phút
đi qua đông-điểm của đảo Trà-Cổ, làm thành đường biên-giới bắt đầu tại điểm
mà điều-ước của Công-Ước chấm dứt.
góc phải : Carte à l’extrémité orientale de la frontière Sino-annamite
telle qu’elle est figurée sur la carte qui accompagne à Procès-verbal
signé à Péking, le 26 Juin 1887 – (voir l’extrait ci-joint de ce
procès-verbal) – Signature et cachet du Plénipotentiaire Chinois. Tạm dịch :
Bản-đồ phần cực-đông của biên-giới Việt-Trung sao y bản-đồ đính-kèm biên-bản
được kư tại Bắc-Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887 (xem bản sao biên-bản kèm
theo đây)- Chữ kư và con dấu của Tổng-Lư Nha-Môn Trung-Hoa.
Nghiên-cứu nội-dung công-ước và xem-xét bản-đồ đính kèm, ta thấy đường vạch
Bắc-Nam, đi qua đông-điểm của đảo Trà-Cổ, tức là đường kinh-tuyến 105° 43’
– kinh-độ Đông Paris - vừa là đường phân-chia các đảo, vừa là đường
“biên-giới” trên biển, từ nay ta gọi là “đường đỏ”. Tuy nhiên, đường vạch
Bắc-Nam, tức đường đ&# 7887; đă không được xác-định một cách chính-xác.
Thật vậy, đường nầy không có điểm bắt đầu cũng như không có điểm chấm dứt.
Nó được xác-định như một đường thẳng đi qua một điểm cho trước, đó là đông-điểm
(điểm ở phía cực đông) của đảo Trà-Cổ. Việc áp-dụng công-ước nầy gặp một
số khó-khăn v́ có vài vấn-đề chưa được sáng tỏ. Đường đỏ có hiệu-lực từ đâu
đến đâu, v́ “đường kinh-tuyến” có chiều dài từ Bắc-Cực cho đến Nam-Cực và
ư-nghĩa của danh-từ “biên-gi̕ 9;i” trong câu “đường kinh-tuyến tạo thành
đường biên-giới” phải được hiểu như thế nào?
2/ Ư-nghĩa của “đường đỏ”:
Nhiều học-giả trên thế-giới đă có nhiều quan-niệm đối-nghịch nhau về ư-nghĩa
của đường đỏ. Trên căn-bản lịch-sử, xin trích dẫn 2 ư-kiến:
Quan-điểm của ông Charles Fourniau[vii] :
« La convention de la délimitation de la frontière signée le 26 juin 1887
acceptait donc l’abandon d’une partie des territoires où un litige
subsistait entre les deux commissions : les deux principaux étaient l’un
sur la frontière du Yunnan, le canton de Tu-Long, tout entier territoire
de l’Empire annamite et donc les trois quarts environ, soit 750 Km²,
étaient laissés à la Chine, et l’autre, à l’extrémité Est de la frontière
du Guangdong, le cap Packlung et « enclave annamite ». Or, cette dernière
concession était doublement importante : elle enlevait un territoire au
Vietnam et elle déterminait la fixation de la frontière maritime, et
l’appartenance des iles côtières : « Les iles qui sont à l’Est du méridien
de Paris à 105° 43’ de longitude Est, c’est-à-dire la ligne Nord-Sud
passant par la pointe orientale de l’Ile de Tcha Kou (Trà-Cổ) et formant
la frontière sont attribuées à la Chine... ». Dès lors aucun autre accord
ne devait être conclu au sujet de la frontière maritime entre la Chine et
la France. »
Tạm dịch : « Công-Ước phân-định biên-giới kư-kết ngày 26 tháng 6 năm 1887
chấp-nhận như vậy sự bỏ rơi một phần đất tại đó đă có sự tranh-chấp giữa
hai Ủy-Ban, hai vùng chính đó là : một ở trên vùng biên-giới Vân-Nam, tổng
Tụ-Long, toàn vùng thuộc Vương-Quốc An-Nam mà khoảng ba phần tư của nó
(750 Km²) bị nhượng cho Trung-Hoa, và thứ hai, ở phía cực Đông của
biên-giới Quảng-Đông, mũi Bạch-Long và « vùng đất của An-Nam ở trên đất
Trung-Hoa ». Nhưng sự việc nhượng-bộ sau có tầm quan-trọng bội-phần : lấy
đi một phần lănh-thổ của Việt-Nam và xác-định đường biên-giới trên biển đồng-thời
chủ-quyền của các đảo ven bờ : « Các đảo ở về phía Đông của đường kinh-tuyến
Đông 105 độ 43 phút Paris, có nghĩa là đường thẳng Bắc-Nam đi ngang qua đông-điểm
của đào Trà-Cổ và tạo thành đường biên-giới th́ chúng thuộc về Trung-Hoa... ».
Từ đó không một thỏa-ước nào khác phải kư-kết về vấn-đề biên-giới trên
biển giữa Trung-Hoa và Pháp. »
Quan-điểm của ông Pierre-Bernard Lafont[viii] :
« Dès leur implantation au Viet-Nam, les Français eurent le souci de
délimiter la frontière maritime entre leur nouveau domaine et la Chine.
Car le Golfe du Tonkin, parsemé de multiples iles, servait de réfuge à des
pirates, qui non seulement attaquaient et pillaient les navires de
commerce en haute mer, mais qui menaient aussis des incursions
dévastatrices sur le littoral. Aussi, désireuse d’éloigner des côtes de
son nouveau territoire ces hors-la-loi dont le pullulement était favorisé
par les desordres qui, à l’époque, ébranlaient la Chine, la France voulut
que soit rapidement précisée la limite des eaux vietnamiennes et chinoise
dans ce golfe. Cette question fut donc incluse dans les négociations
frontalières franco-chinoises qui aboutirent le 26 juin 1887 à la
signature d’une convention, connue sous le nom de convention Constans, qui
précise dans son article 2, que le méridien 105° 45’ de longitude Est par
rapport au méridien de Paris – c’est-à-dire le méridien 108° 03’ 18’’ de
longitude Est par rapport à celui de Greenwich – constitue la frontière
entre des deux pays dans le Golf du Tonkin. »
Tạm dịch : « Vừa khi chiếm được Việt-Nam th́ người Pháp đă lo đến việc
phân-định lănh-hải giữa vùng đất mới nầy của họ với nước Trung-Hoa. Bởi v́
ở trong Vịnh Bắc-Việt răi-rác có nhiều đảo làm sào-huyệt cho quân cướp,
bọn nầy không những tấn-công cướp bóc các thương-thuyền ở ngoài biển khơi,
mà c̣n mở ra những cuộc càn-quét, tàn-phá vùng đất ở cận biển. Nước Pháp
mong muốn vùng đất mới của họ tránh xa bọn cướp nầy mà sự đông-đảo của
chúng đến từ sự hỗn-loạn, mà thời đó đă làm điên-đảo nước Trung-Hoa ; cho
nên họ muốn rằng đường giới-hạn lănh-hải giữa Việt-Nam và Trung-Hoa trong
vùng vịnh nầy nhanh-chóng được xác-định. Vấn-đề nầy đă được nhập vào với
sự thương-thuyết về biên-giới giữa Pháp và Trung-Hoa, để đưa đến việc kư
kết vào ngày 26 tháng 6 năm 1887 một Công-Ước, được biết dưới tên công-Ước
Constans mà điều 2 của công-Ước nầy ghi rằng đường kinh-tuyến Đông 105 độ
45 phút Paris, tương-ứ ;ng với đường kinh-tuyến Đông 108 độ 03 phút 18
giây Greenwich, là đường biên-giới giữa hai nước trong Vịnh Bắc-Bộ. »
« Đường đỏ » theo hai học-giả nầy là « Đường biên-giới trong vịnh Bắc-Việt ».
Hiệu-lực của “đường đỏ”, cả hai hàm-ư chỉ giới-hạn trong trong vịnh Bắc-Việt
và nó có giá-trị như đường biên-giới trên đất liền.
Điều nầy dễ-dàng được chấp-nhận v́ Công-Ước phân-định biên-giới giữa tỉnh
Quảng-Đông thuộc Trung-Hoa và Tonkin (Bắc-Việt). Hiệu-lực “đường đỏ” v́
thế chỉ giới-hạn ở hai vùng Tonkin và Quảng-Đông. Điểm bắt đầu và điểm chấm
dứt của nó v́ thế phải ở trong vùng biển có tên là Vịnh Bắc-Việt (Golf du
Tonkin).
3/ Ư-nghĩa “đường đỏ” theo quan-niệm Trung-Hoa:
Ư-kiến của Trung-Hoa đưa ra nhằm để tranh-dành quần-đảo Hoàng-Sa của
Việt-Nam. Chính-phủ Trung-Hoa suy-diễn tùy-tiện về đường đỏ, kéo dài đường
nầy từ Trúc-Sơn (điểm bắt đầu biên-giới Quảng-Đông và Tonkin, đoạn Trúc-Sơn
đến ải Chí-Mă)[ix] xuống phía Nam, rời khỏi Vịnh Bắc-Việt, lên bờ, cắt
ngang lên cả đất liền thuộc Trung-Bộ Việt-Nam, làm cho quần-đảo Hoàng-Sa
ở về phía Đông của đường đỏ nầy. Họ kết-luận, theo Công-Ước 1887,
quần-đảo nầy thuộc về chủ-quyền của Trung-Hoa.
Công-hàm ngoại-giao ngày 29 tháng 9 năm 1932[x] nguyên-văn đoạn có
liên-hệ đến công-ước 1887 và Vịnh Bắc-Việt:
“Légation de la République Chinoise.
29 Septembre 1932.
La Légation de la République Chinoise en France, d’ordre de son
Gouvernement, a l’honneur de transmettre la réponse de ce dernier à la
Note que le Ministère des Affaires Etrangères a bien voulu lui adresser le
4 Janvier 1932 au sujet de l’Archipel des Iles Paracels.
Les Iles Si-Chao-Tchuin-Tao désignées aussi sous le nom de Tsi-Tcheou-Yang
appelées en langue étrangère Iles Paracels, et au Nord-Est desquelles sont
les Iles Ton-Chao, se trouvent dans la mer territoriale de la Province du
Kouang-Tong (South China Sea); elles forment un des groupes de l’ensemble
des Iles de la Mer de Chine du Sud qui font partie intégrante de la mer
territoriale de la Province du Kouang-Tong.
D’Après les Rapports établis en l’An XVII de la République Chinoise (1926)
au sujet des Si-Chao-Tchuin-Tao (Paracels), rédigés par Mr. Shen-Pung-Fei,
Président de la Commission d’enquête sur ces Iles, et les dossiers
concernant également ces Iles établis par le Bureau de l’Industrie de la
Province Kouang-Tong, ces Iles s’étendent du 110° 13 au 112° 47 de
longitude Est; grandes et petites, elle sont au nombre de plus d’une
vingtaine, la plupart d’entre elles sont des banc de sable incultes, les
autres, une dizaine, sont formés de rochers, huit forment réellement des
Iles. Des deux groupes Est et Ouest, celui de Est est appelé
“Amphitrite”, celui de l’Ouest “Chroissant”. Ces groupes se trouvent à 145
miles marins de l’Ile de Hai-Nan et forment la partie du territoire
chinois située le plus au sud.
La clause 3 de la Convention relative à la Délimitation de la Frontière
entre la Chine et le Tonkin, signée à Pékin le 26 Juin 1887 stipule qu’au
Kouang-Tong, il est entendu que les points contestés qui sont situés à
l’Est et au Nord-Est de Monkai, au-delà de la frontière telle qu’elle a
été fixée par la Commission de Délimitation, sont attribués à la Chine.
Les Iles qui sont à l’Est de la ligne Nord-Sud passant par la pointe
orientale de l’ile de T’cha-Kou et formant la frontière sont également
attribuées à la Chine. Les Iles Kou-Teou et les autres petites Iles qui
sont à l’Ouest de cette ligne appartiennent à l’Annam.
Le point de départ des frontière entre l’Indochine et la province chinoise
du Kouang-Tong est Tchou-Chan situé à 21° 30 de latitude Nord et 108° 2 de
longitude Est. D’après les sus-dites stipulation, le litoral de
l’Indochine se trouvant à l’Ouest de Tchou-Chan; de ce point, en
descendant la côte vers le Sud, de toutes façons les Iles Paracels se
trouvent très loin à l’Est de cette ligne, et sont séparées du litoral
Indochinois par l’Ile de Hai-Nam. On voit aisément, d’après leur position
géographique à quel pays elles doivent être ratachées.
.......”
Tạm dịch: “Sứ-Quán Trung-Hoa tại Pháp, thừa-lệnh Chính-Phủ Trung-Hoa hân-hạnh
chuyển thư của Chính-Phủ trả lời công-hàm ngày 4 tháng 1 năm 1932 của
Bộ-Trưởng Bộ Ngoại-Giao Pháp về vấn-đề quần-đảo Paracels (Hoàng-Sa).
Quần-đảo Si-Chao-Tchuin-Tao, c̣n được gọi dưới tên Tsi-Tcheou-Yang, nước
ngoài gọi là Paracels, phía Đông-Bắc có quần-đảo Ton-Chao, tọa-lạc trong
hải-phận của tỉnh Quảng-Đông (biển Hoa-Nam); các đảo nầy tạo thành một
trong nhiều nhóm của tập-hợp đảo trong biển Hoa-Nam mà chúng hoàn-toàn
thuộc hải-phận của tỉnh Quảng-Đông.
Theo những bản tường-tŕnh của ông Shen-Pung-Fei, Chủ-Tịch Ủy-Ban Điều-Tra,
thành-lập vào năm thứ 17 của nước Cộng-Ḥa Trung-Hoa (1926) về vấn-đề
Si-Chao-Tchuin-Tao (Paracels) và những hồ-sơ liên-hệ đến các đảo nầy của
pḥng Kỹ-Nghệ tỉnh Quảng-Đông, các đảo nầy rải-rác trải từ 110° 13 đến
112° 47 kinh-tuyến Đông; gồm khoảng 20 đảo lớn nhỏ, phần lớn là những dải
cát hoang, một số khác, khoảng 10 đảo do đá tạo nên, 8 đảo thực sự là đảo.
Có hai nhóm Đông và Tây. Nhóm phía Đông gọi là nhóm “Amphitrite”, nhóm
phía Tây gọi là nhóm “Croissant”. Các nhóm nầy cách đảo Hải-Nam 145 dặm
biển và tạo thành vùng lănh-thổ cực Nam của Trung-Hoa.
Điều 3 của Công-Ước Phân-Định Biên-Giới giữa Trung-Hoa và Tonkin, kư tại
Bắc-Kinh ngày 26 tháng 6 năm 1887 qui-định rằng ở Quảng-Đông, hai bên
thỏa-thuận rằng những điểm tranh-chấp th́ ở phía Đông và Đông-Bắc Móng-Cái,
ở về phía bên kia của đường biên-giới đă được xác-định do Ủy-Ban Phân-Định,
th́ chúng được giao cho Trung-Hoa. Những đảo ở về phía Đông của đường Bắc-Nam
đi qua đông-điểm của đảo Trà-Cổ và tạo thành đường biên-giới th́ chúng
cũng được gi ao cho Trung-Hoa. Những đảo Keou-Teou và những đảo nhỏ khác ở
về phía Tây của đường nầy th́ thuộc về An-Nam.
Điểm bắt đầu của biên-giới giữa Indochine và tỉnh Quảng-Đông là Trúc-Sơn
có tọa-độ 21° 30 vĩ-tuyến Bắc và 108° 2 kinh-tuyến Đông. Theo những ǵ
ghi-nhận trên đây, bờ biển Indochine ở về phía Tây của Trúc-Sơn. Từ điểm
nầy, đi xuống về phía Nam, bằng cách nào th́ quần-đảo Paracels cũng ở về
phía Đông của đường nầy và giữa quần-đảo nầy với bờ biển Indichine th́ có
đảo Hải-Nam ngăn-chặn. Người ta thấy dễ-dàng, theo vị-trí địa-lư của
Paracels, là nó thuộc v̓ 3; nước nào.
.....”
Có nhiều điều không đúng với thực-tế trong công-văn nầy:
- Quần đảo Hoàng-Sa (Paracels) không nằm trong hải-phận tỉnh Quảng-Đông.
Vào thời điểm năm 1929 hải-phận của mỗi quốc-gia chỉ có 3 hải-lư tính từ
bờ. Lănh-hải của vùng Đông-Dương được Pháp xác-định là 3 hải-lư vào năm
1926, đến năm 1936 th́ được mở rộng ra 10 hải-lư. Năm 1958, hải-phận
Trung-Hoa chỉ mới có là 12 hải-lư. Công-văn của thủ-tướng Việt-Nam Dân-Chủ
Cộng-Ḥa Phạm Văn Đồng năm 1958 công-nhận lănh-hải nầy của Trung-Hoa.
- Hoàng-Sa cách Hải-Nam đến 170 hải-lư chứ không phải chỉ là 145
hải-lư. Và đảo Hải-Nam, theo địa-lư không hề nằm ở giữa quần-đảo Hoàng-Sa
và bờ biển Việt-Nam.
- Công-Ước 1887 phân-định biên-giới giữa Trung-Hoa và Tonkin, tức
Bắc-Kỳ, chứ không phải với Indochine. V́ thế công-ước nầy chỉ liên-quan
đến BIÊN-GIỚI giữa tỉnh Quảng-Đông thuộc Trung-Hoa và Tonkin, tức Bắc-Kỳ,
thuộc Việt-Nam. Sau hoà-ước 1884, Tonkin (Bắc-Việt) là một thực-thể
chính-trị cách-biệt với An-Nam (Trung-Việt) và Cochinchin e (Nam-Việt). Đường
đỏ v́ thế chỉ có hiệu-lực ở Tonkin, chứ không thể áp-dụng cho toàn
Indochine (gồm có Tonkin, An-Nam, Cochinchine, Cambodge và Lào).
- Đường đỏ theo Công-Ước 1887 chỉ nhằm mục-đích phân-chia các đảo
ở vùng “cực Đông” của Bắc-Việt, “l’Extrémité orientale de la frontière
Sino-Annamite”, và tạo thành đường biên-giới trên biển giữa Tonkin và Quảng-Đông
như đă ghi trong bản-đồ “đường đỏ” đính kèm Công-Ước. Hiệu-quả của Công-Ước
nầy không thể áp-dụ ;ng trong những vùng ở ngoài Tonkin.
- Đường kinh-tuyến làm thành biên-giới không đi qua Trúc-Sơn (kinh
độ 108° 2). Nguyên-văn Công-Ước th́ kinh-tuyến đông Paris 105° 43 đi qua đông-điểm
đảo Trà-Cổ làm thành đường biên-giới, tức là kinh-tuyến 108° 03’ 18’’ Đông
Greenwich, chứ không phải 108° 02.
- Quần-đảo Hoàng-Sa ở khoảng từ vĩ-tuyến Bắc 16° đến 17°, kinh-tuyến
Đông 111° đến 113°. V́ thế, đối-chiếu theo vĩ-tuyến, quần-đảo Hoàng-Sa đối-diện
với các tỉnh thuộc miền Trung Việt-Nam.
Việc chính-phủ Trung-Hoa kéo dài đường đỏ xuống phía Nam, ghi sai vị-trí địa
lư Hoàng-Sa với Hải-Nam và bờ biển An-Nam, rút ngắn khoảng-cách giữa
quần-đảo nầy với Hải-Nam và cho nó vào trong hải-phận của tỉnh Quảng-Đông
để nhằm dành quần-đảo Hoàng-Sa, đồng-hóa Tonkin với Indochine... đă cho
thấy chủ-ư của Trung-Hoa trong vấn-đề giải-quyết tranh-chấp lănh-thổ.
Mặc khác, đọc công-văn nầy làm người ta nhớ lại quá-khứ, những năm
phân-giới giữa Bắc-Việt và Trung-Hoa 1889-1897. Người Hoa đă không ngần-ngại
ngụy-tạo những bằng-chứng như đền thờ Mă-Viện, núi Phân-Mao v.v... để lừa
người Pháp và dành đất của Việt-Nam. Các biên-bản hay những tờ nhật-kư của
các viên-chức phụ-trách phân-giới thời đó đă được người viết chép lại, lược
dịch và đăng tải trên trang nhà www.ifrance.com/truongnhantuan cho ta có
một cái nh́n tổng-quát về thái-độ của Trung-Hoa. Họ luôn có những luận-cứ
khác người, thí-dụ, “đường thẳng” đối với họ là một đường từ Bắc xuống Nam
hay từ Đông sang Tây (trục tung và trục hoành) c̣n đường nghiêng (oblique)
th́ không phải là đường thẳng. Thí-dụ khác, chiều dài con sông th́ chỉ
tính bắt đầu lúc con sông chảy ở trên đồng bằng, đoạn sông chảy trên núi
th́ không tính[xi]. Với những luận-cứ nầy họ nh́-nhằng kéo dài việc
phân-giới, mục-đích chiếm lấy đất của Việt-Nam. Quan-niệm kéo dài “đường
đỏ”, bất-chấp thực-tế lịch-sử, để dành đảo Hoàng-Sa của Việt-Nam cũng là
một trong nhiều quan-niệm khác người. Điều lạ là quan-niệm phi-lư nầy vẫn
c̣n được tồn-tại cho đến hôm nay. Nhiều sách, báo, hay tài-liệu chính-thức
của Trung-Hoa vẫn c̣n dựa trên luận-cứ nầy để dành Hoàng-Sa và Trường-Sa
về họ.
Yếu-tố mà chúng ta ghi-nhận nơi công-văn trên là Trung-Hoa đă nghiễm-nhiên
công-nhận phần lănh-thổ phía cực Nam của Trung-Hoa là quần-đảo Hoàng-Sa.
4/ Ư-nghĩa pháp-lư Công-Ước 1887:
Madame Monique Chemillier-Gendreau [xii], trong quyển La Souveraineté Sur
Les Archipels Paracels et Spratleys, trang 80-83, có tŕnh-bày một số quan-điểm
pháp-lư về Công-Ước 1887 nhân việc chính-phủ Trung-Hoa diễn-giải tùy-tiện
“đường đỏ” của công ước nầy để dành chủ-quyền trên quần-đảo Hoàng-Sa. Xin
tóm-lược như sau:
“Mục-tiêu của Công-Ước 1887 nhằm phân-định biên-giới giữa Trung-Hoa và
Tonkin, như tên mà công-ước đă được đặt và công-ước nầy liên-quan đến
biên-giới trên đất liền. Nếu những định-nghĩa về một đường vạch ở trên
biển đă được các công-ước ngày xưa sử-dụng, như là Công-Ước Pháp-Trung
1887 hay Công-Ước Pháp-Bồ (Portugal) 1886[xiii], th́ những định-nghĩa
nầy chỉ có thể được đưa vào những cuộc thương-lượng kim-thời để phân-định
lănh-hải như là những yếu-tố hướng-dẫn, chúng phải được xét lại tùy theo
luật-lệ về phân-định lănh-hải hiện-hành. Những vùng biển mà tại đó những
quốc-gia có thể tuyên-bố ; chủ-quyền đó là lănh-hải (lănh-địa hải-phận -
mer territoriale). Chiều rộng thông thường của lănh-hải là 3 hải-lư (1 hải-lư=1,8
Km). Ở một số quốc-gia lănh-hải nầy lên tới 6 hải-lư. Những khái-niệm về
vùng “tiếp-cận” (zone contigue), vùng đánh cá, thềm lục-địa... chỉ mới
hiện-hữu sau thế-thiến thứ hai.
Biên-giới phân-định (theo Công-Ước 1887) là biên-giới giữa Tonkin và
Trung-Hoa. Nó chỉ liên-hệ đến phần đất nầy của Việt-Nam mà Pháp gọi là
Tonkin mà thôi.
Sự diễn-giải nội-dung của công-ước chắc-chắn phải nhắm đến việc phân-chia
các đảo cận bờ của hai quốc-gia. Mục-tiêu của công-ước là phân-định
lănh-thổ trên đất liền, nhưng nó cũng có một phụ-chú nhằm vào việc xác-định
các ḥn đảo gần đó. V́ lo-ngại văn-từ không thể ghi ra hết, bởi có rất
nhiều đảo rất nhỏ, người ta có thể bỏ quên một vài đảo ra ngoài vùng phân-định.
Để hiệu-quả và đơn giản, đường kinh-tuyến đư&# 7907;c đưa vào. Kết-quả đă
thấy thật rơ-ràng. Hơn nữa, nếu v́ một lư-do thời-tiết hay v́ sự lắn-đọng
của phù-sa, một đảo hay một cù-lao mới rất có thể được thành-h́nh.
Chủ-quyền của đảo nầy sẽ chiếu theo văn-bản mà thi-hành. Đây là ư-nghĩa
của công-ước 1887 và nó không có một hàm ư nào khác nữa.
Có một điều rất quan-trọng để xác-quyết cho sự diễn-giải nầy. Để ư ta thấy
“đường đỏ” có một điểm khởi-hành chính-xác: “đường thẳng Bắc-Nam đi qua đông-điểm
của đảo Trà-Cổ” nhưng nó không có điểm chấm dứt. Đây không phải là một sự
t́nh-cờ hay một sự bỏ quên. Đường thẳng nầy không cần phải chấm dứt ở một
điểm. Chiều dài hữu-dụng của nó tùy-thuộc vào sự hiện-hữu của các đảo ven
bờ.
Làm sao người ta có thể nghĩ rằng các tác-giả của công-ước nầy có dự-trù
về hiệu-quả pháp-lư của con đường nầy cho đến khi nó gặp bờ biển
Trung-Việt ? V́ ảnh-hưởng của văn-bản nầy mà tất-cả những đảo ven bờ ở
phía Nam của Huế sẽ thuộc về Trung-Hoa... Nhưng dầu vậy, một số tác-giả
Trung-Hoa đă không ngần-ngại bênh-vực lư-lẽ nầy để dựa lên công-ước dành
quần-đảo Trường-Sa (Spratleys). Trung-Hoa đă xác-nhận chủ-quyền của họ tr
ên căn-bản mở rộng ra vô-tận về phía Nam và Tây-Nam. Người ta có quyền đặt
câu hỏi tại sao Trung-Hoa chỉ dành các đảo san-hô nầy? V́ dựa lên sự nhượng
quyền của Pháp, Trung-Hoa có thể mở rộng bờ-cơi tiếp-cận đến sự phi-lư, đ̣i
hỏi chủ-quyền tại Phi-Luật-Tân, thí-dụ vậy. Các đảo nầy không phải ở về
phía Đông của đường kinh-tuyến đó sao?
Tuy-nhiên, khi mà sự diễn-giải tiến đến sự phi-lư th́ phương-pháp giải-quyết
phải chiếu theo Công-Ước Vienne, đồng-thời kiểm-soát lại xem trong lúc
dự-thảo (công-ước 1887) đă có sự phủ-nhận hay xác-nhận nào đó liên-quan
đến vấn-đề nầy.”
Nhận-xét trên đây của Bà M. Chemillier-Gendreau, “đường đỏ” là đường
phân-chia các đảo ven bờ. Hiệu-lực của “đường đỏ” chỉ giới-hạn trong Vịnh
Bắc-Việt và kéo dài cho đến nơi nào c̣n đảo trong Vịnh. Chiều dài “đường
đỏ” theo ư-kiến nầy v́ thế là từ đông-điểm của đảo Trà-Cổ cho đến vùng gần
đảo Cồn Cỏ, tức chấm dứt trước vĩ-tuyến 17.
Về ư-nghĩa đường chia hải-giới của “đường đỏ”, Bà M. Chemillier-Gendreau
có đưa ra án-lệ 14 tháng 2 năm 1985 giữa Cộng-Ḥa Guinée và nước
Guinée-Bissau. Theo Công-Ước giữa Pháp và Bồ-Đào-Nha (Portugal) 12 tháng 5
năm 1886, xác-định một đường ṿng để phân-biệt các đảo thuộc Pháp với các
đảo thuộc Bồ. Nước Cộng-ḥa Guinée cho đây là đường phân-định lănh-hải. Nhưng
ṭa-án đă bác bỏ lư-lẻ nầy v́ cho rằng Công-Ước 1886 chỉ có mục-tiêu phân-định
biên-giới trên đất liền.
Công-Ước 1887 phân-định biên-giới giữa Trung-Hoa và Tonkin, Convention
Relative à la Délimitaton de la Frontière entre la Chine et le Tonkin,
“frontière, biên-gới” ở đây ngoài ư-nghĩa biên-giới trên đất liền,
“frontière, biên-giới” c̣n có ư-nghĩa phân-chia vùng biển. Nội-dung công-ước,
tức gồm các biên-bản và bản-đồ đính kèm, đă xác-định rơ-rệt: biên-giới
trên đất liền và biên-giới trong vịnh Bắc-Việt.
Thật vậy, Công-Ước ghi khá rơ đường kinh-tuyến “formant la frontière”, làm
thành đường biên-giới. Nếu danh-từ “biên-giới, frontière” dùng trong bản
văn chỉ có nghĩa phân-chia các đảo th́ câu “formant la frontière” trong văn-bản
hoàn-toàn dư. Nếu bỏ câu nầy th́ ư-nghĩa của việc phân-chia các đảo vẫn
không thay đổi: “Les îles qui sont à l’est du méridien de Paris 105° 43’
de longitude est, c’est-à dire de la ligne nord-sud passant par la pointe
orientale de l’île de Tch’a-Kou ou Ouan-chan (Tra-Co) sont ég alement
attribués à la Chine. Les îles Go-tho et les autres îles qui sont à
l’ouest de ce méridien appartiennent à l’Annam. Những đảo ở về phía Đông
của kinh-tuyến Paris kinh-độ Đông, có nghĩa là đường Bắc-Nam đi qua đông-điểm
của đảo Trà-Cổ th́ thuộc về Trung-Hoa. Những đảo Go-Tho và những đảo khác
ở về phía Tây của đường kinh-tuyến nầy th́ thuộc về An-Nam”. V́ thế ư-nghĩa
của “frontière, biên-giới” ở đây phải có một ư-nghĩa khác với việc để xác-định
chủ-quyền các đảo. Ư-nghĩa khác đó chỉ có thể là ư-nghĩa của một đường
biên-giới trên biển ở trong vịnh Bắc-Việ t, Golf du Tonkin.
Để bổ-túc vào việc xác-quyết vấn-đề nầy, theo đề-nghị của Bà M.
Chemillier-Gendreau, chúng ta phải khảo-cứu lại các dự-thảo của Công-Ước,
tức biên-bản bế-mạc công-tŕnh phân-định biên-giới. Có hai bản dự-thảo,
một của Pháp và một của Trung-Hoa, hiện đang tồn-trữ tại Centre des
Archives d’Outre-Mer (CAOM), Aix-En-Provence, Pháp-Quốc, carton có mă-số
GGI, INDO, 65355. Cả hai đều không có ghi câu văn liên-quan đến đường
kinh-tuyến cũng như việc phân chia các đảo. Tuy-nhiên, theo tài-liệu Les
Frontières du Tonkin của Dr Néis[xiv], đăng trong Le Tour Du Monde 1888,
ông nầy là một nhân-viên trong phái-đoàn phân-định biên-giới 1886-1887.
Ông có đưa ra một bản đồ vùng tranh-chấp là mũi Bạch-Long (cap Packlung),
trong đó ta thấy rơ-rệt đường kinh-tuyến và trên đó có ghi câu “frontère
actuelle du Tonkin, biên-giới hiện nay của Bắc-Việt”
(h́nh 2)
Nhưng chi-tiết quan-trọng hơn cả là bản-đồ đính-kèm biên-bản, là bản-đồ (h́nh
1) mà người viết đă t́m thấy tại Văn-Khố Hải-Ngoại của Pháp tại
Aix-En-Provence (CAOM) năm 2002. Bản-đồ nầy được khám-phá ra sau khi quyển
sách về Chủ-Quyền Hoàng-Sa và Trường-Sa của bà M. Chemillier-Gendreau được
xuất-bản (1996). Bản-đồ có ghi-chú một câu quan-trọng : « Le méridien de
Paris 105° 43’ qui passe par la pointe orientale de l’ile Tra-Co, forme la
frontière à partir du point où s’est arrêté le traité de la convention. »
Tạm dịch : Đường kinh-tuyến Paris 105 độ 43 phút đi qua đông-điểm của đảo
Trà-Cổ, làm thành đường biên-giới bắt đầu tại điểm mà điều-ước của Công-Ước
chấm dứt. Ư-nghĩa của « đường đỏ » v́ vậy là đường biên-giới trên biển,
nối tiếp với đường biên-giới trên đất liền.
Điều nầy cho phép ta khẳng-định là Công-Ước 1887 cũng có mục tiêu phân-định
lănh-hải trong vịnh Bắc-Việt.
Nhiều học-giả, như bà M. Chemillier-Gendreau trong quyển La Souveraineté
sur les Archipels Paracels et Spratleys có nhắc ở trên, hay là những vị :
ông François Joyaux trong quyển La Tentation Impériale, ông Eric Decéné
trong quyển Géotratégie de la Mer de Chine Méridionale, bà Claudine
Maudoux trong bài La Mer de Chine Méridionale (Revue Stratégique N° 63)
v.v… cùng đồng-ư về vai tṛ « phân-chia đảo » của « đường đỏ ». Quí-vị nầy
cho rằng, quan-niệm về quyền chủ-quyền trên biển chỉ mới có vào thế-kỷ 20,
theo công-ước 1982 về Biển, lănh-hải của mỗi nước được xác-định không quá
12 hải-lư. Điều 3 công-ước 1982 như sau : « Largeur de la mer
territoriale : Tout Etat a le droit de fixer la largeur de sa mer
territoriale, cette largeur ne dépasse pas 12 milles marins mesurés à
partir de lignes de base établies conformément à la Convention » « Mọi
quốc-gia được quyền xác-định bề rộng lănh-hải nước ḿnh nhưng không vượt
quá 12 hải-lư tính từ đường cơ-bản được thiết-lập phù-hợp với tinh-thần
c&# 7911;a Công-Ước ».
Nhưng trường-hợp ngoại-lệ, Vịnh Bắc-Việt là một vùng biển “historique”, nó
chỉ liên-quan đến hai quốc-gia: Trung-Hoa và Việt-Nam. Điều 15 của Công-Ước
1982 Luật về Biển như sau :
Article 15
« Délimitation de la mer territoriale entre Etats dont les côtes sont
adjacentes ou se font face
Lorsque les côtes de deux Etats sont adjacentes ou se font face, ni l'un
ni l'autre de ces Etats n'est en droit, sauf accord contraire entre eux,
d'étendre sa mer territoriale au-delà de la ligne médiane dont tous les
points sont équidistants des points les plus proches des lignes de base à
partir desquelles est mesurée la largeur de la mer territoriale de chacun
des deux Etats. Cette disposition ne s'applique cependant pas dans le cas
où, en raison de l'existence de titres historiques ou d'autres
circonstances spéciales, il est nécessaire de délimiter autrement la mer
territoriale des deux Etats. » « Phân-định lănh-hải giữa hai quốc-gia kế-cận
hay đối-diện. Khi hai quốc -gia kế-cận hay đối-diện, không một quốc-gia
nào được quyền mở rộng lănh-hải quá đường trung-tuyến mà mọi điểm trên đây
cách đều những điểm gần nhất của các đường cơ-bản, từ những đường nầy đo
chiều rộng lănh-hải mỗi nước, ngoại trừ có sự thoả-thuận riêng giữa hai nước.
Điều-lệ nầy không áp-dụng trong trường-hợp có sự hiện-hữu những văn-kiện
lịch-sử hay những trường-hợp đặc-biệt, việc phân-định lănh-hải v́ thế phải
được thực-hiện bN 57;ng một cách khác. »
Chúng ta thấy điều 15 đă dự-trù một ngoại-lệ. Đó là trường-hợp những vùng
biển đă có chủ, được chứng-nhận qua một « titre propriétaire » văn-kiện
chủ-quyền. Điều nầy cho phép ta kết-luận rằng luật quốc-tế về biển
công-nhận sự hiện-hữu những văn-kiện liên-quan đến quyền chủ-quyền trong
một vùng biển.
Công-Ước 1887 là văn-kiện chứng-minh chủ-quyền của Việt-Nam và Trung-Hoa
trong vịnh Bắc-Việt. Vịnh nầy được chia cắt bằng đường kinh-tuyến 105°
43’, mà trong bài nầy ta gọi là « đường đỏ ».
Việc phân-định lănh-hải, rộng 12 hải-lư, phù hợp theo nội-dung công-ước
quốc-tế 1982, giữa Việt-Nam và Trung-Hoa trong vịnh Bắc-Việt sẽ không có
trở-ngại, nếu hai bên cùng tỏ thiện-chí. Hai bên sẽ không gặp khó-khăn v́
chiều rộng Vịnh Bắc-Việt khá quan-trọng để vùng lănh-hải chồng-lấn lên
nhau. Ngoại trừ vùng biên-giới Trúc-Sơn – Trà-Cổ. Khó-khăn nơi đây đem lại
do địa-lư, là phải vẽ đường thẳng góc với đường bờ biển (xem h́nh 3). Lối
vẽ nầy đ& #7871;n từ nội-dung Công-Ước Quốc-Tế về Biển 1982. Đường thẳng
góc đó là đường biên-giới phân lănh-hải hai nước. Những sai-biệt diện-tích
lănh-hải tại đây - nếu có - sẽ không đáng kể.
Nhưng việc xác-định vùng tiếp-cận (zone contigue), vùng kinh-tế độc-quyền
(zone économique exclusive) và thềm lục-địa (plateau continental) giữa hai
nước Việt-Nam và Trung-Hoa, nếu không đưa vào trường-hợp ngoại-lệ là có sự
hiện-hữu một văn-kiện xác-nhận chủ-quyền, là Công-Ước 1887, th́ hai bên có
chồng-lấn lên nhau.
Theo án-lệ 14 tháng 2 năm 1985 có nhắc ở trên và ghi-chú phía dưới, ṭa-án
bác-bỏ yêu-sách của nước Cộng-Ḥa Guinée v́ Công-Ước Pháp-Bồ chỉ nhằm mục-đích
phân-định biên-giới trên đất liền. Công-ước Bắc-Kinh 1887 hoàn-toàn khác
với nội-dung Công-Ước Pháp-Bồ 12 tháng 5 năm 1886 v́ Công-Ước Bắc-Kinh
1887 có chủ-trương phân-định lănh-hải trong vịnh Bắc-Bộ. Những tài-liệu
của Dr Néis và nhất là bản-đồ đính-kèm công-ước 1887 vừa được người viết
công-bố đă xác-định một cách rơ-rệt mục-tiêu phân-chia hải-giới giữa Pháp
và nhà Thanh vào thời đó.
Án-lệ nầy cho thấy luật quốc-tế công-nhận những văn-kiện chứng-nhận
chủ-quyền của một quốc-gia trên một vùng biển. Yêu-sách của nước Cộng-Ḥa
Guinée bị bác bỏ là v́ không chứng-minh được sự hiện-hữu của một văn-kiện
nh́n-nhận chủ-quyền của nước nầy tại vùng biển có tranh-chấp. Nếu Việt-Nam
đưa ra ṭa-án quốc-tế để giải-quyết th́ trường-hợp Việt-Nam tại vùng Vịnh
Bắc-Việt sẽ tương-tự như trường-hợp Cộng-Ḥa Guinée, chỉ khác một điều
cơ-bản : Việt-Nam chứng-minh được sự hiện-hữu của một văn-kiện-lịch-sử
phân-chia hải-giới trong vùng biển tranh-chấp c̣n Cộng-Ḥa Guinée th́
không.
Đường kinh-tuyến 105° 43’ kinh-độ Đông Paris, tức 108° 3’ 18’’ kinh-độ Đông
Greewich, v́ thế vừa là đường phân-định lănh-hải, vừa là đường phân-chia
vùng tiếp-cận, vùng kinh-tế độc-quyền và thềm lục-địa giữa hai nước
Trung-Hoa và Việt-Nam trong Vịnh Bắc-Việt. Đường nầy bắt đầu từ Đông-Điểm
đảo Trà-Cổ và chấm dứt tại điểm mà nó cắt đường nối cửa Vịnh (từ mũi
Oanh-Ca thuộc đảo Hải-Nam đến đảo Cồn Cỏ).
Phần 2 : Hiệp-Định Phân-Định Vịnh Bắc-Bộ 25 tháng 12 năm 2000 : Hiệp-Định
bất-b́nh-đẳng
Hiệp-Định Phân-Định Vịnh Bắc-Bộ giữa hai nước Trung-Hoa và Việt-Nam, kư-kết
25 tháng 12 năm 2000, bắt đầu có hiệu-lực kể từ ngày 30 tháng 6 năm 2004.
Chi-tiết hiệp-định được Tổng-Trưởng Bộ Ngoại-Giao CSVN Nguyễn Dy Niên giải-thích
khá đầy-đủ qua cuộc trả lời phỏng-vấn các phóng-viên Thông-Tấn-Xă Việt-Nam
và báo Nhân-Dân vào ngày 1 tháng 7 năm 2004. Nội-dung bài phỏng-vấn được
đăng trên các báo điện-tử ở trong nước.
Đây là một hiệp-định phân-định biên-giới được xếp vào thể-loại « bất-b́nh-đẳng »
v́ những người kư-kết đă bỏ qua tất-cả những yếu-tố lịch-sử đă có ở vịnh
Bắc-Việt cũng như bất-chấp căn-bản công-bằng của quốc-tế công-pháp
hiện-thời liên-quan đến việc phân-chia lănh-hải giữa hai nước. Hiệp-định
25 tháng 12 năm 2000 đă gây thiệt-hại rất nhiều cho quốc-gia Việt-Nam.
Sơ-đồ và bảng ghi tọa-độ các điểm cơ-bản của đường phân-định (bảng nầy do
Nguyễn Ngọc Giao công-bố):
Một số chi-tiết đáng chú-ư liên-quan đến hiệp-định được Nguyễn Dy Niên
công-bố, ghi lại như sau :
“Hai bên thống nhất một đường phân định với 21 điểm kéo dài từ cửa sông
Bắc Luân ra đến Cửa Vịnh phía Nam, trong đó từ điểm 1 đến điểm 9 là biên
giới lănh hải, từ điểm 9 đến điểm 21 là ranh giới chung cho cả vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa. Theo Hiệp định, Việt Nam được hưởng 53,23%
diện tích Vịnh và Trung Quốc được hưởng 46,77% diện tích Vịnh. Đường phân
định đi cách đảo Bạch Lo ng Vĩ 15 hải lư, tức đảo được hưởng lănh hải rộng
12 hải lư, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 3 hải lư (25% hiệu lực).
Đảo Bạch Long Vĩ là một đảo nhỏ của Việt Nam (diện tích khoảng 2,5 km2)
lại nằm gần như ở giữa Vịnh Bắc Bộ (cách bờ biển Việt Nam khoảng 110 km,
cách bờ đảo Hải Nam-Trung Quốc khoảng 130 km), tạo ra một hoàn cảnh đặc
biệt nên theo luật pháp và thực tiễn quốc tế chỉ được hưởng một phần hiệu
lực hạn chế trong phân định. Đảo Cồn Cỏ cũng là một đảo nhỏ nh ưng nằm gần
bờ của Việt Nam hơn (cách bờ khoảng 13 hải lư) nên được hưởng 50% hiệu lực
trong việc phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tại đường đóng
cửa Vịnh. Đây là một kết quả công bằng đạt được trên cơ sở luật pháp và điều
kiện cụ thể của Vịnh (bờ biển của ta dài hơn của Trung Quốc, ta có nhiều
đảo trong Vịnh, đặc biệt có đảo Bạch Long Vĩ nằm gần chính giữa Vịnh)
Trong Hiệp định, hai bên cam kết tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và
quyền tài phán của mỗi bên đối với lănh hải, vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ. Theo đó, mỗi bên tự chủ tiến hành việc
thăm ḍ, khai thác một cách độc lập các tài nguyên khoáng sản trong phạm
vi thềm lục địa của ḿnh . Đối với những cấu tạo mỏ dầu, khí tự nhiên đơn
nhất hoặc mỏ khoáng sản khác nằm vắt ngang đường phân địn h, hai bên thông
qua hiệp thương hữu nghị để đạt được thoả thuận về việc khai thác hữu hiệu
nhất cũng như việc phân chia công bằng lợi ích thu được từ việc khai thác.
Ngoài ra, Hiệp định cũng quy định về việc sử dụng hợp lư và phát triển bền
vững tài nguyên sinh vật trong Vịnh Bắc Bộ cũng như hợp tác có liên quan
đến bảo tồn, quản lư và sử dụng tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền kinh
tế hai nước.”
Nhận-xét 1 : Phủ-nhận nội-dung Công-Ước 1887. Nhận-xét đầu-tiên là Hiệp-Định
2000 phủ-nhận hoàn-toàn tinh-thần Công-Ước 1887, phần biểu-hiện qua « đường
đỏ ». Theo những tài-liệu đă công-bố, từ năm 1974 đă có những cuộc thương-thuyết
về biên-giới, lănh-hải giữa Việt-Nam và Trung-Hoa. Hai bên có bất-đồng trầm-trọng
về vai-tṛ của « đường đỏ » trong Vịnh Bắc-Việt. Phe Bắc-Kinh cho « đường
đỏ » chỉ là đường « quản-lư hành-chánh », trong khi phe VN th́ cho rằng
« đường đỏ » có vai tṛ phân-chia hải-phận. Nhưng từ khi có những nhân-vật
thân Tàu lên nắm đảng CSVN, chủ-trương của VN thay đổi 180°. Chủ-trương
của VN hiện nay là chủ-trương của Tàu. V́ thế gần đây, Lê Công Phụng, bây
giờ Nguyễn Dy Niên, cho rằng Vịnh Bắc-Việt chưa hề được phân-định nên cần
phải phân-định lại. Lê Công Phụng c̣n cho rằng đây là một « thắng lợi lớn »
của Việt-Nam. Nhưng từ khi người viết t́m ra được bản-đồ vùng « cực Đông »
Bắc-Việt đính-kèm công-ước 1887, những ghi-chú trên đó cho thấy Vịnh Bắc-Việt
đă được phân-định. Câu hỏi đặt ra là Việt-Nam đă có « thắng-lợi » nào ở
Hiệp-Định năm 2000 ? Không thấy ai trong đảng CSVN giải-thích. Cũng không
thấy ai giải-thích việc thay-đổi chủ-trương 180°, từ của Việt-Nam đổi
thành của Tàu, trên quan-điểm về vai-tṛ của « đường đỏ ». So-sánh với
Công-Ước 1887, lấy diện-tích phần lơm (4306 phút vuông ) trừ cho phần
diện tích lồi (832 phút vuông), ta thấy Việt-Nam bị thiệt-hại khoảng 3474
phút vuông, tương ứng 3474 dặm vuông, tức vào khoảng 11.930 Km², chưa trừ
sai số « géodésique ». (xem h́nh 3)
H́nh 3 :
Nhật-xét 2 : Từ điểm 1 đến điểm 9 trên bản-đồ của hiệp-định 2000, đường
phân-định lănh-hải xê-dịch không đáng kể. Đường nầy tương-đối chính-xác v́
nó gần như phù-hợp với cách chia lănh-hải theo luật quốc-tế về biển, là đường
phân-định thẳng góc với đường bờ biển (gọi là đường α, cắt đảo Hải-Nam tại
điểm gọi là a). Nhưng từ điểm 9 đến điểm 10, thu̕ 7;c đường phân-chia vùng
kinh-tế độc-quyền và thềm lục-địa, th́ sự phân-chia không công-bằng. Ta
nhận thấy đoạn thẳng (9,10) không nằm trên đường (α) tức tạo thành đường
thẳng với các điểm 7, 8, 9, mà gẫy gập về hướng Việt-Nam. Lư ra, điểm 10
phải ở vị trí 10’, là điểm gần nhất cách bờ Việt-Nam cũng như bờ Trung-Hoa.
Điểm nầy cũng là trung-điểm của đoạn nối bờ biển Việt-Nam với đảo Hải-Nam
trên đường (α). Ta thấy Việt-Nam bị thiệt-hại, toàn vùng tam giác (9, 10,
10’) ước-lượng trên 1500 Km² bị nhượng cho Trung -Hoa. Nếu cho rằng đường
(9,10) bị gập là do ảnh-hưởng các đảo nhỏ Vị-Châu (Weizhou) và Tà-Dương (Xieyang)
th́ không đúng. Đường (9,10) cách khoảng 100 Km đảo Vị-Châu. Nếu các đảo
Bạch-Long-Vĩ và Cồn-Cỏ của Việt-Nam không có vùng kinh-tế độc-quyền th́
các đảo nhỏ của Tàu không lư-do ǵ mà được hưởng. Riêng về điểm 10,
kiểm-soát bằng compas, điểm nầy không hề được chia theo đường trung-tuyến
(xem h́nh 4).
Các điểm 12, 13, 14, 15, 16 17 18 19 đều không nằm trên đường trung-tuyến,
tương-tự như điểm 10. Các điểm nầy đều lấn sang vùng biển của Việt-Nam (xem
h́nh 4).
Điểm 21, kiểm-soát bằng compas, cho thấy đảo Cồn-Cỏ không có hiệu-lực 50%
như ông Nguyễn Dy Niên công-bố (xem h́nh 4).
Nhận-xét 3 : Hải-Nam là một đảo, cũng như hai đảo Bạch-Long-Vĩ và Cồn Cỏ.
Trên căn-bản pháp-lư nào đảo Hải-Nam được hưởng mọi đặc-quyền như lục-địa,
đó là lănh-hải, vùng tiếp-cận, vùng kinh-tế độc-quyền, thềm lục-địa…,
trong khi đảo Bạch-Long-Vĩ và đảo Cồn Cỏ cũng là đảo, th́ không ? Theo
Luật Quốc-Tế về biển th́ không có một khoản nào cho phép một đảo nầy có
nhiều đặc-quyền hơn đ 843;o khác.
Điều thứ 121 của Công-Ước về Biển 1982 có ghi :
1. Une île est une étendue naturelle de terre entourée d'eau qui reste
découverte à marée haute. (Đảo là một dải đất tự-nhiên, có nước bao-bọc
chung-quanh và không bị nước phủ lúc thủy-triều lên)
2. Sous réserve du paragraphe 3, la mer territoriale, la zone contiguë, la
zone économique exclusive et le plateau continental d'une île sont
délimités conformément aux dispositions de la Convention applicables aux
autres territoires terrestres. (Một đảo có hải-phận, vùng tiếp-cận, vùng
kinh-tế độc-quyền và thêm lục-địa riêng, ngoại trừ điều-kiện ghi dưới phần
3)
3. Les rochers qui ne se prêtent pas à l'habitation humaine ou à une vie
économique propre, n'ont pas de zone économique exclusive ni de plateau
continental. (Những băi đá (cồn đá) mà người ta không thể sinh-sống, hoặc
tạo một nền kinh-tế tự-tại th́ không có vùng kinh-tế độc quyền cũng như
không có thềm lục-địa).
Đảo Bạch-Long-Vĩ cũng như đảo Cồn-Cỏ là những « dải đất tự-nhiên, có biển
bao-bọc, không bị nước phủ khi thủy-triều cao », có dân sinh-sống và có
một nền kinh-tế tự-túc là trồng-trọt và đánh cá, tại sao chúng không có
lănh-hải, vùng tiếp-cận, vùng kinh-tế độc-quyền và thềm lục-địa ?
Trong trường-hợp Hiệp-Định 2000, hỏi ông Nguyễn Dy Niên, trên căn-bản « luật-pháp
và thực-tiễn quốc-tế » nào, nhắc lại lời ông đă trả lời phỏng-vấn, mà đảo
Hải Nam có đặc quyền nhiều hơn lục-địa Việt-Nam ? Tất-cả các điểm trên đường
phân-định không ở vị-trí cách đều bờ biển Việt-Nam và Hải-Nam, chúng đều
lấn về phía Việt-Nam (xem h́nh 4).
Vấn-đề đo-đạc là nhiệm-vụ của các nhân-viên trắc-địa, tuy-nhiên, ở đây
chúng ta có thể đưa ra một cái nh́n sơ-lược về đường trung-tuyến trong
vịnh. Trên h́nh 4, ta thấy, nếu chúng ta bỏ qua hiệu-lực của các đảo th́
đường trung-tuyến nầy vẫn có lợi cho Việt-Nam nhiều hơn là đường phân-định
theo Hiệp-Định 2000.
Cách đo nầy trước hết là xác-định hai đường chuẩn giới-hạn : đường thứ 1
là đường (α), là đường xuất-phát từ điểm giao-giới trên đất liền giữa VN
và Trung-Hoa thẳng góc với đường bời biển, cắt đảo Hải-Nam tại điểm a. Đường
thứ 2 là đường nối mũi Oanh-Ca với đảo Cồn Cỏ, cũng là đường nối cửa Vịnh
Bắc-Việt. Ta có hai đường b ờ biển đối xứng nhau, được giới-hạn bởi hai đường
chuẩn trên. Mỗi bờ ta đặt ra một số điểm chuẩn nhất-định. Đương-nhiên, v́
quyền-lợi của hai bên, những điểm chuẩn nầy được chọn là những điểm xa bờ
nhất.
Chúng ta biết trong trường hợp vịnh Bắc-Việt, chiều ngang rộng nhất chỉ có
310Km, tức 176 hải-lư. Điều 57 của luật về biển xác-định vùng kinh-tế độc-quyền
không quá 200 hải-lư. Nếu áp-dụng luật nầy th́ hải-phận hai bên chồng-lấn
lên nhau. V́ thế người ta mới chia hải-phận bằng cách xác-định đường
trung-tuyến. Đường nầy được định-nghĩa qua điều 15 của luật biển có ghi
trên.
Có nhiều phương-pháp toán-học để xác-định đường trung-tuyến nếu ta biết
tọa-độ những điểm chuẩn ở hai bờ. Ở đây, để đơn-giản, ta có thể dùng
compas, lấy tâm là những điểm chuẩn, vạch những ṿng tṛn có đường
bán-kính (tỉ-lệ theo bản-đồ) 88 hải-lư (176/2 hải-lư). Những giao-điểm của
những ṿng tṛn cho phép ta vẽ một đường trung-tuyến gần đúng. So-sánh đường
trung-tuyến nầy ta thấy rằng phần biển bên VN vẫn lớn hơn so với lối
phân-chia theo Hiệp-Định 2000.
Điều quan-trọng là ta không tính đến hiệu-lực các đảo Bạch-Long-Vĩ và đảo
Cồn Cỏ. Nếu ta áp-dụng tinh-thần luật về biển, các đảo nầy có lănh-hải,
vùng kinh-tế độc-quyền và thềm-lục-địa, th́ tâm của đảo là một điểm chuẩn,
ta thấy đường trung-tuyến sẽ lấn sang bên Trung-Hoa rất nhiều.
Việc nầy cho ta kết-luận là Hiệp-Định 2000 không hề đặt căn-bản trên
luật-pháp quốc-tế về biển mà nó được phân-chia theo ư muốn của Tàu.
H́nh 4 :
Kết-luận : Hiệp-Định phân-định Vịnh Bắc-Bộ là một kết-ước bất-b́nh-đẳng.
Một kết-ước nào đó được kư-kết giữa hai hay nhiều quốc-gia được gọi là bất-b́nh-đẳng
khi một bên (quốc-gia) không được tự-chủ trong quá-tŕnh thương-lượng và
kư-kết. Các hiệp-ước kư vào thế-kỷ thứ 19 gi 919;a Trung-Hoa và các đế-quốc
như Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nga, Bồ … hay những hiệp-ước giữa Việt-Nam và
Pháp đă kư dưới triều nhà Nguyễn là những hiệp-ước bất-b́nh-đẳng. Vào thời-điểm
nầy triều-đ́nh Trung-Hoa cũng như Việt-Nam bị uy-hiếp bằng vũ-lực. Quân
Tàu thua các cường-quốc trên mọi mặt-trận, cũng như Việt-Nam thua Pháp,
nên buộc phải kư nhượng những đặc-quyền kinh-tế hay cắt nhượng đất-đai cho
những cường-quốc nầy để được yên-thân, riêng Việt-Nam sa vào ṿng lệ-thuộc.
Các hiệp-ước đó ta gọi là những hiệp-ước bất-b́nh-đẳng. Trung-Hoa và
Việt-Nam phải kư-kết mà không có sự chọn lựa nào khác. Theo Công-Ước
Vienne 1969 về hiệu-lực của các hiệp-ước, một quốc-gia có quyền hủy-bỏ tất-cả
các hiệp-ước bất-b́nh-đẳng, ngoại trừ những hiệp-ước liên-quan đến việc
phân-chia lănh-thổ.
Hiệp-định phân-định vịnh Bắc-Bộ là một hiệp-định bất-b́nh-đẳng v́ đây là
sản-phẩm của sự thương-lượng giữa hai đảng cộng-sản : CSVN và đảng CS
Trung-Hoa. Không một người dân Việt-Nam nào biết đến nội-dung và diễn-tiến
việc kư-kết nầy.
Chúng ta nhận thấy, từ việc hoăn-kư thương-ước với Hoa-Kỳ, để cho
Trung-Hoa kư trước, vào cuối thập-niên 90, cho đến những vụ nhượng đất qua
Hiệp-Định 1999 phân-định biên-giới, ngày nay nhượng biển qua Hiệp-Định
2000, chứng-tỏ thái-độ lệ-thuộc của đảng CSVN vào đảng CS Trung-Hoa. Trong
hơn 400 đại-biểu bỏ phiếu thông-qua Hiệp-Định 2000 vào tháng 6 năm 2004,
dường như chỉ có 1 phiếu chống. Tạm gọi 1 phiếu đó là nhứt điểm lương-t âm.
Sắp tới vấn đề Hoàng-Sa, Trường-Sa và hải-phận biển Đông cũng sẽ được phân
định. Hoàng-Sa th́ đă như xong, những phản-ứng của đảng CSVN về việc nầy
chỉ để lấy lệ, nhằm trấn-an dư-luận, hơn là nhằm mục-tiêu lấy lại. Theo
François Joyaux trong cuốn « La Tentaton Impériale » th́ đă có tới 10.000
( ?) dân Tàu được cho định-cư tại các đảo Hoàng-Sa. Một số tài-liệu khác
th́ tại Hoàng-Sa, Trung-Cộng đă cho xây-dựng một phi-trường có thể tiếp-nhận
phi-cơ chiến-đấu và v́ vùng biển chung-quanh Hoàng-Sa có độ sâu đặc-biệt,
có thể nay mai Trung-Cộng sẽ cho xây căn-cứ tiềm-thủy-đĩnh. Hoàng-Sa đă
biến thành một bàn đạp vững-chắc để Trung-Cộng tiến về vùng biển phía Nam.
Hoàng-Sa cũng đă trở thành một pháo-đài vừa pḥng-ngự vừa tiến-công
vững-chắc, không những vừa có khả-năng ngăn-chặn mọi bước tiến của bất-kỳ
đại-cường nào, mà c̣n có dư tiềm-lực để đánh-tan mọi lực-lượng quân-sự nào
muốn chen chân vào đây. Tại quần-đảo Trường-Sa th́ Việt-Nam đă mất ¾
khu-vực. Trung-Cộng bắt đầu kiểm-soát được khu-vực biển nầy nhờ ở sự
ngoan-ngoăn và thần-phục của những nhà lănh-đạo CSVN. Nhưng hành-động
nhu-nhược và bất-tài của đảng CSVN đă gây thiệt-hại nặng-nề cho đất nước
Việt-Nam và thái-độ thần-phục nầy đe-dọa sự tồn-vong của dân-tộc Việt-Nam.
Đối-diện với một nước Tàu đă xác-định được vị-trí « đại-cường » trên thế-giới
hôm nay. Nh́n lại đường-lối chính-trị bất nhất của Trung-Hoa từ hơn nửa
thế-kỷ qua, từ t́nh « đồng-chí anh em » khắn-khít với Liên-Xô, sau trở
thành đối-thủ không nhân-nhượng với nước nầy, cuối cùng trở nên ḥa-hoản
với Nga sau khi Liên-Xô sụp-đổ. Từ thế đối đầu mất c̣n với Hoa-Kỳ và
Nhật-Bản trên hai thập-niên, cuối cùng Trung-Hoa< SPAN style="mso-spacerun:
yes"> nhờ tiền bạc cũng như khoa-học kỷ-thuật của hai nước nầy để
phát-triển. Từ tư thế đàn anh của thế-giới thứ 3, Trung-Hoa thử giúp-đỡ
các nước trong khối nầy nhưng họ không có khả-năng nên không giúp được ǵ,
tuy-nhiên, khi họ có khả-năng th́ họ lại quay lưng không giúp. Nh́n lại văn-hóa
Trung-Hoa để kiểm-nhận ra rằng dân-tộc nầy không có thói quen tôn-trọng
những hiệp-ước đă kư-kết. Theo nhận xét của một học-giả Tây-Phương, những
kết-ước đối với Trung-Hoa chỉ có giá-trị tr ong một lúc nhất-định nào đó,
trong một hoàn-cảnh kinh-tế, chính-trị, quân-sự… nào đó. Khi hoàn-cảnh
thay-đổi th́ kết-ước sẽ không được tôn-trọng. Ta có thể kiểm-chứng việc
nầy qua những truyện Tàu, hay lịch-sử giao-tiếp giữa Việt-Nam và Trung-Hoa.
Tưởng Giới Thạch có phát-biểu một câu đại-ư « không-gian của dân Hán được
mở ra tùy theo sự cần-thiết để sinh-tồn của giống dân nầy và biên-cương
của nước Tàu được xác-định bằng những mốc văn-hóa Trung-Hoa ». Điều nầy có
nghĩa vùng đất hay biển nào mà người Tàu thấy cần-thiết, nếu có khả-năng,
th́ họ sẽ chiếm vùng đất hay biển đó và nơi nào ảnh-hưởng nền văn-minh
Trung-Hoa th́ nơi ấy thuộc Tàu. Ta có thể thấy hiệu-quả việc nầy qua trường-hợp
Tây-Tạng, Tân-Cương… vùng Biển Đông, Hoàng-Sa, Trường-Sa v.v…
Đường-lối chính-trị « quanh-co » của Trung-Hoa và tham-vọng bành-trướng
của nước nầy hơn bao giờ hết đe-dọa toàn vùng Đông-Nam-Á, nhưng nặng-nề nhất
là Việt-Nam v́ lư do địa-lư chiến-lược.
Nh́n lại Việt-Nam, tập-đoàn lănh-đạo bất-tài trong công-việc kinh-bang
tế-thế, bất-xứng v́ không giữ-ǵn được toàn-vẹn đất nước, cá-nhân họ đều
là những người bất-nghĩa, bất-nhân và tư-cách hèn-hạ.
V́ thế, nguy-cơ mất nước Việt-Nam hiện nay chỉ có 2 : sự tồn-tại của đảng
CSVN và sự phát-triển mạnh-mẽ về mọi phương-diện của Trung-Cộng.
Trương Nhân Tuấn
[i] Charles Fourniau, Agrégé d’histoire, Docteur d’Etat en Histore. La
Frontière sino-vietnamienne et le face à face franco-chinois à l’époque de
la conquête du Tonkin, Biên-giới Việt-Trung và sự đối-đầu của hai nước
Pháp-Trung vào thời-kỳ chinh-phục Bắc-Kỳ, trang 85 đến trang 103, trong
quyển Les Frontière du Vietnam, nxb Harmattan, Paris 1989. Trang 92
[ii] François Joyaux, Géopolitique de l’Extrême Orient.
[iii] Công-tŕnh nầy bắt đầu từ tháng 4 năm 1885, hồ-sơ CAOM, GGI, INDO,
65355.
[iv] Những địa-phận nầy là : Vùng mũi Pak-lung (Bạch-Long) ở phía bắc
Móng-Cái, tiếp-giáp với tỉnh Quảng-Đông; vùng được gọi là “section 2”, tức
là tổng Tụ-Long và vùng gọi là “section 5”, tức toàn vùng hữu-ngạn sông
Hồng. Hai vùng sau tiếp-giáp với tỉnh Vân-Nam. Công-ước 26-6-1887 quyết-định
nhượng vùng mũi Bạch-Long và toàn-bộ tổng Tụ-Long (hai vùng nầy đều thuộc
Việt-Nam) cho Tàu. Một số xă thuộc tổng Phương-Độ, gần Tụ-Long và 9 xă rưỡi
thuộc tổng Bát-Tràng (thuộc tỉnh Quảng-Ninh) th́ bị nhượng sau nầy do đại-tá
Pennequin (phụ-trách phân-giới vùng Vân-Nam) và đại-tá Gallieni (phụ-trách
phân-giới vùng Lưỡng-Quảng).
[v] Xem www.ifrance.com/truongnhantuan
[vi] CAOM, GGI, INDO, 65355.
[vii] La Frontière sino-vietnamienne et le face à face franco-chinois à
l’époque de la conquête du Tonkin, Biên-giới Việt-Trung và sự đối-đầu của
hai nước Pháp-Trung vào thời-kỳ chinh-phục Bắc-Kỳ, trang 85 đến trang 103,
trong quyển Les Frontière du Vietnam, nxb Harmattan, Paris 1989. Trang 92.
[viii] “Đường Biên-Giới Trên Biển của Việt-Nam”, La Frontière maritime du
Vietnam, Pierre-Bernard Lafont, từ trang 235 đến trang 243, trong quyển Les
Frontières du Vietnam, do chính ông làm chủ-biên, nxb Harmattan, Paris
1989. Trang 236-237.
[ix] Xem biên-bản “Proces-verbal de délimitation N° 1: De Tchouk-san à
Chima” ở trang nhà ghi trên.
[x] trích từ La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys, nxb
Harmattan 1996, Monique Chemillier-Gendreau.
[xi] Đọc Lettre du Commandant Chiniac de Labastide, Président de la
Commission d’abornement des frontières sino-annamites, à Monsieur le
Gouverneur Général de l’Indochine. Au sujet des travaux de l’abornement. đọc
thêm Lettre du Commandant Chiniac de Labastide, Président de la Commission
d’abornement des frontières sino-annamites, à Monsieur le Gouverneur
Général de l’Indochine. Objet: Inconvénients et dangers de la frontière
admise entre Kalong et Bac-C uong-Ai par la Commission française de
délimitation. Đăng trong www.ifrance.com/truongnhantuan
[xii] M. Chemillier-Gendreau, Giáo-Sư các ngành Khoa-Học Chính-Trị và
Công-Pháp tại trường Đại-Học Paris VII, tác-giả quyển La Souveraineté sur
les Archipels Paracels et Spratleys, nxb Harmattan 1996.
[xiii] Một trường-hợp tương-tự: Án-lệ 14 tháng 2 năm 1985 giữa Cộng-Ḥa
Guinée và Guinée-Bissau. Công-ước 12-5-1886 Pháp-Bồ bị đặt vấn-đề. Công-Ước
nầy có vẽ một đường ṿng trên biển để phân-biệt những đảo thuộc P áp với
những đảo thuộc Bồ-Đào-Nha. Nước Cộng-Ḥa Guinée cho rằng đường nầy có
giá-trị như là một đuờng biên-giới trên biển. Ṭa-án không chấp-nhận v́
công-ước 1886 chỉ quan-hệ đến biên-giới trên đất liền.
[xiv] Paul-Marie Neis sinh ngày 28 tháng 2 n ăm 1852, tốt-nghiệp trường
Y-S ĩ Hải-Quân Brest, đ ến Tonkin n ăm 1879.
|