Đất Việt

Đất Việt kính chào bạn đọc .....  Vận động và hổ trợ tinh thần Dân Chủ  Đa Nguyên
   
  Ngày 09/19/2002
 

 

 

Việt Nam và Trung Quốc đă thỏa thuận lại đường biên giới

 

  Tri Nguyễn

   
 

Thứ trưởng Ngoại giao, Trưởng Ban Biên giới, Lê Công Phụng gần đây đă trả lời phỏng vấn Thông tấn xă VN về nội dung của Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa và việc triển khai thực hiện bản Hiệp ước này.

- Xin Thứ trưởng cho biết một số nét cơ bản về t́nh h́nh biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc?
- Đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc dài khoảng 1.350 km, nối liền 6 tỉnh của Việt Nam (Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh) với hai tỉnh của Trung Quốc (Vân Nam và Quảng Tây). Địa h́nh dọc theo đường biên giới chủ yếu là núi non và sông, suối (có khoảng 400 km biên giới sông, suối). Ở một số khu vực mật độ dân cư dọc hai phía đường biên giới khá cao.

- Đường biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc được h́nh thành trong quá tŕnh lịch sử lâu dài. Từ cuối thế kỷ XIX đường biên giới lịch sử này trở thành đường biên giới pháp lư, v́ đă được hoạch định trong hai Công ước Pháp - Thanh năm 1887, 1895 và trên thực địa được hai bên phân giới và cắm hơn 300 mốc giới.

- Lư do dẫn đến sự nhận thức khác nhau giữa hai bên về đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc?

- Việc hoạch định, phân giới và cắm mốc được tiến hành từ hơn 100 năm trước với những phương tiện và điều kiện thô sơ lúc đó, nên lời văn và bản đồ về nhiều đoạn biên giới không thật đầy đủ, rơ ràng và chính xác. Đường biên giới được vẽ trên bản đồ tỷ lệ lớn với nền địa h́nh được thể hiện một cách tổng hợp, nhiều nơi rất khác so với địa h́nh tự nhiên trên thực địa. Việc phân giới, cắm mốc cũng có những hạn chế nhất định: toàn bộ mốc giới đều không được xác định bằng lưới tọa độ, vị trí mốc giới cũng không được mô tả chính xác.

Hơn nữa, trải qua hơn một thế kỷ, nhiều mốc bị hư hỏng, thậm chí bị mất, một số mốc bị xê dịch so với vị trí vẽ trên bản đồ, địa h́nh, địa vật cũng có nhiều thay đổi. Bên cạnh những hạn chế trên, trong hơn 100 năm qua t́nh h́nh chính trị - xă hội ở mỗi nước có nhiều biến đổi, quan hệ giữa hai nước cũng đă trải qua các bước thăng trầm.

Toàn bộ các yếu tố đó dẫn đến việc hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở một số khu vực, làm cho t́nh h́nh ngày càng trở nên phức tạp và thường xuyên xảy ra tranh chấp trên toàn tuyến biên giới giữa hai bên.

Ngay từ những năm 50 của thế kỷ trước, ta và Trung Quốc đă nhận thức rơ yêu cầu khách quan của việc chuẩn xác lại đường biên giới trên đất liền giữa hai nước. Từ giữa những năm 70 hai bên cũng đă tiến hành đàm phán về vấn đề biên giới, lănh thổ, song chưa đi tới thỏa thuận. Sau khi b́nh thường hóa quan hệ vào năm 1991, hai nước mới bắt tay vào đàm phán thực chất.

- Việt Nam và Trung Quốc đă thỏa thuận những nguyên tắc ǵ để xác định lại đường biên giới trên đất liền giữa hai nước?

- Từ năm 1992, Việt Nam và Trung Quốc tiến hành đàm phán ở cấp chuyên viên. Năm 1993, lănh đạo cấp cao hai nước đi đến quyết định quan trọng là mở diễn đàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới, lănh thổ, trong đó biên giới trên đất liền là một trong 3 nội dung đàm phán. Đoàn đàm phán của ta gồm có đại diện các ngành và các tỉnh biên giới hữu quan đă tiến hành đàm phán rất thận trọng và nghiêm túc với nhận thức đầy đủ về trách nhiệm trước đất nước. Ngày 19/10/1993 đại diện Chính phủ hai nước đă kư Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới, lănh thổ.

Về vấn đề biên giới trên đất liền, Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản năm 1993 đă đề ra một loạt các nguyên tắc chỉ đạo tiến tŕnh đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền giữa hai nước, cụ thể:

Một là, hai bên lấy các Công ước Pháp - Thanh năm 1887, 1895 cùng các văn kiện, bản đồ hoạch định và cắm mốc biên giới kèm theo, cũng như các mốc giới cắm theo quy định để xác định lại đường biên giới trên đất liền. Đây là nguyên tắc cơ bản và quan trọng.

Hai là, trong quá tŕnh đối chiếu xác định hướng đi của đường biên giới đối với những khu vực, sau khi đă đối chiếu nhiều lần mà vẫn không đi đến nhất trí, hai bên sẽ cùng nhau khảo sát thực địa, suy tính đến t́nh h́nh tồn tại khu vực với tinh thần thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, thương lượng hữu nghị để t́m giải pháp công bằng, hợp lư;

Ba là, sau khi hai bên đă đối chiếu xác định lại đường biên giới, bất cứ khu vực nào do một bên quản lư vượt quá đường biên giới, về nguyên tắc, phải được trả lại cho bên kia không điều kiện. Đối với một số vùng cá biệt, để tiện cho việc quản lư biên giới, hai bên có thể thông qua thương lượng hữu nghị điều chỉnh thích hợp theo t́nh thần thông cảm và nhân nhượng lẫn nhau, công bằng, hợp lư;

Bốn là, hai bên đồng ư tính đến mọi t́nh h́nh và tham khảo tập quán quốc tế để giải quyết biên giới trên sông, suối;

Năm là, đối với các khu vực dân cư hai bên đă sinh sống lâu đời (ở một số khu vực dân Trung Quốc cư trú quá đường biên giới, ở một số khu vực khác dân ta cư trú quá đường biên giới) th́ hai bên nhất trí duy tŕ cuộc sống ổn định của dân cư.

Sáu là, hai bên thoả thuận lập Nhóm công tác liên hợp để bàn bạc cụ thể về các vấn đề liên quan. Từ năm 1994 đến 1999, Nhóm công tác liên hợp đă tiến hành 16 ṿng đàm phán ở thủ đô Hà Nội và Bắc Kinh.

- Thứ trưởng có thể cho biết cách thức và kết quả đàm phán về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc ?

- Theo đúng Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản 1993, mỗi bên tự căn cứ vào các văn bản pháp lư nêu trên để vẽ đường biên giới theo sự đánh giá của ḿnh lên cùng một loại bản đồ (gọi là bản đồ đường biên giới chủ trương), sau đó cùng trao cho nhau để đối chiếu, xác định những đoạn biên giới hai bên vẽ trùng nhau và khác nhau.

- Qua đối chiếu, hai bên vẽ trùng khớp nhau khoảng 900 km trong tổng số 1.350 km toàn tuyến biên giới. Trong 450 km c̣n lại có 164 khu vực hai bên có nhận thức khác nhau, với tổng diện tích khoảng 227 km2  ( các khu vực này được gọi là khu vực C ). Ngoài ra, ở 125 khu vực khác với diện tích gần 5 km2 hai bên khác nhau do sai lệch về kỹ thuật và các khu vực này đă được giải quyết khá nhanh chóng bằng các biện pháp kỹ thuật một cách hợp lư, công bằng cho cả hai bên.

- Thực chất của suốt quá tŕnh đàm phán chính là tập trung giải quyết 164 khu vực C nói trên và đến cuối năm 1999 hai Đoàn đàm phán đă giải quyết xong toàn bộ 164 khu vực đó. Kết quả giải quyết là: trong tổng số 227 km2 của 164 khu vực này th́ khoảng 113 km2 được xác định thuộc Việt Nam và khoảng 114 km2 được xác định thuộc Trung Quốc. Giải pháp đối với 164 khu vực C đă được hai bên mô tả trong Bản ghi nhận chung và sau đó đưa vào bản Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước năm 1999 (kèm theo Hiệp ước là bộ bản đồ tỷ lệ 1/50.000 gồm 34 mảnh). Những đoạn biên giới sông, suối đă được Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và 1895 quy định rơ ràng th́ giải quyết theo đúng quy định của các Công ước đó. C̣n những đoạn biên giới sông, suối chưa được hai Công ước nói trên quy định rơ ràng th́ giải quyết theo đúng thông lệ quốc tế, cụ thể là: ở các đoạn sông, suối tàu thuyền đi lại được th́ đường biên giới đi theo trung tuyến luồng chính tàu thuyền đi lại, c̣n ở những đoạn sông, suối tàu thuyền không đi lại được th́ đường biên giới ở các sông, suối này sẽ đi theo trung tuyến ḍng chảy hoặc ḍng chảy chính.

- Kết quả đàm phán và việc kư Hiệp ước năm 1999 về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc là phù hợp với các nguyên tắc cơ bản đă được hai bên thỏa thuận, bảo đảm công bằng và thỏa đáng cho cả hai bên, đáp ứng các lợi ích cơ bản, lâu dài của nước ta.

-  Gần đây có một số tin gây hoài nghi về kết quả đàm phán như: Việt Nam đă vô cớ để mất một diện tích đất đai rất lớn, thậm chí mất đến 700 km2; Việt Nam mất thác Bản Giốc, mất Hữu Nghị Quan. Vậy thực hư thế nào?

- Trước hết, với tư cách là Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới, lănh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc, tôi xin khẳng định tin về việc ta để mất đến 700 km2 đất là không đúng và không có cơ sở. Bởi v́, như trên đă nêu, sau khi đối chiếu đường biên giới chủ trương của hai bên theo đường biên giới Pháp - Thanh, th́ toàn bộ diện tích hai bên tranh chấp ở 164 khu vực C chỉ khoảng 227 km2. Rơ ràng, diện tích mà đường biên giới chủ trương của hai bên khác nhau chỉ có 227 km2, trong số đó khoảng 113 km2 thuộc Việt Nam và khoảng 114 km2 thuộc Trung Quốc; tức là diện tích được giải quyết cho mỗi bên xấp xỉ ngang nhau, th́ không thể có việc ta bị mất hàng trăm cây số vuông được.

Hơn nữa, do nhiều nhân tố, hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở nhiều đoạn, do đó mới phải đàm phán. Đối với những khu vực mà bên này hoặc bên kia có đầy đủ cơ sở pháp lư (lời văn rơ ràng, hoặc đường biên giới trên bản đồ rơ ràng...) th́ đất bên nào phải trả lại cho bên đó. Nhưng đối với những khu vực mà các cơ sở pháp lư không được đầy đủ th́ tất yếu trong đàm phán không thể chỉ đáp ứng yêu cầu của một bên mà phải có sự nhân nhượng lẫn nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản được hai bên thỏa thuận, nhằm đạt được kết quả giải quyết công bằng và thỏa đáng cho cả hai bên.

Về thác Bản Giốc ở tỉnh Cao Bằng và khu vực Hữu Nghị Quan ở tỉnh Lạng Sơn th́ sự thực như sau:
Hai khu vực này thuộc các khu vực phức tạp, nhạy cảm nhất trong quan hệ biên giới giữa hai nước. Trên thực tế, tại hai khu vực này đă từng xẩy ra tranh chấp phức tạp và kéo dài trong nhiều năm. Các văn bản pháp lư về hoạch định và phân giới cắm mốc giữa chính quyền Pháp và Nhà Thanh cũng có những điểm quy định không rơ ràng. Đường biên giới được vẽ trên bản đồ tỷ lệ lớn (1/100.000), địa h́nh ở khu vực Hữu Nghị Quan được vẽ tổng hợp, không phù hợp với địa h́nh tự nhiên trên thực địa, nên rất khó xác định hướng đi của đường biên giới. Những hạn chế về cơ sở pháp lư và điều kiện tự nhiên đó đă dẫn đến hai bên có nhận thức khác nhau về hướng đi của đường biên giới ở hai khu vực này.

Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các cơ sở và yếu tố có liên quan, hai bên đă thống nhất giải quyết hai khu vực nêu trên như sau:

a. Khu vực thác Bản Giốc là một trong số các khu vực đường biên giới đi theo sông, suối. Do đó, cũng như ở các khu vực sông, suối khác đường biên giới ở khu vực này được giải quyết theo tập quán quốc tế là theo trung tuyến ḍng chảy chính; việc xác định trung tuyến ḍng chảy chính ở thác Bản Giốc sẽ do hai bên cùng đo đạc xác định trong quá tŕnh phân giới, cắm mốc và ḍng chảy chính vẫn ở trên thác. Như vậy, hoàn toàn không có việc ta mất thác Bản Giốc mà chỉ là việc xác định hướng đi của đường biên giới phù hợp với nguyên tắc xác định hướng đi của đường biên giới trên sông, suối đă được hai bên thỏa thuận, phù hợp với tập quán quốc tế.

b. Khu vực Hữu Nghị Quan có liên quan đến đoạn biên giới đi qua đường bộ nối liền hai nước và đi qua tuyến đường sắt. Đối với đoạn đường bộ th́ Biên bản hoạch định Pháp - Thanh năm 1886 quy định rằng đường biên giới "nằm ở phía Nam Ải Nam Quan, trên con đường từ Nam Quan đến làng Đồng Đăng". Khi phân giới, hai bên đă cắm mốc số 18 để xác định đường biên giới và vị trí của mốc này cũng được mô tả là nằm trên đường từ Nam Quan đến Đông Đăng (mốc này đă bị mất); c̣n trên bản đồ cắm mốc Pháp - Thanh năm 1894 th́ địa danh Nam Quan nằm ở phía Bắc đường biên giới. Như vậy, đường biên giới luôn luôn ở phía Nam của Nam Quan, chứ không phải đi qua địa danh đó. Đối với đoạn đường sắt, phía Trung Quốc cho rằng đường biên giới đi qua điểm nối ray, nhưng qua đàm phán hai bên đă đi đến giải pháp là đường biên giới nằm ở phía Bắc điểm nối ray 148 m, chứ không phải ở điểm nối ray như ư kiến của Trung Quốc .

Như vậy, có thể khẳng định rằng về tổng thể, các giải pháp đạt được trong việc giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền nói chung và đối với hai khu vực cụ thể nói trên là thỏa đáng, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của cả hai bên; những thông tin do bọn phản động và cơ hội chính trị tung ra là hoàn toàn bịa đặt, không có căn cứ và chỉ nhằm phục vụ cho những ư đồ chính trị đen tối.

- Thứ trưởng cho biết ư nghĩa của việc giải quyết biên giới trên đất liền giữa ta và Trung Quốc ?

- Đối với bất kỳ quốc gia nào, giải quyết vấn đề về biên giới, lănh thổ là vấn đề rất thiêng liêng và nhạy cảm, đồng thời luôn là một công việc khó khăn, phức tạp. Ư thức được trọng trách nặng nề đó, chúng ta đă đàm phán và kư với Trung Quốc Hiệp ước biên giới trên đất liền ngày 30/12/1999.

Với việc kư kết Hiệp ước biên giới trên đất liền, ta đă giải quyết dứt điểm được một trong ba vấn đề biên giới, lănh thổ tồn tại lâu nay với Trung Quốc (biên giới trên đất liền, Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông). Hiệp ước là kết quả của quá tŕnh đàm phán lâu dài, thể hiện nỗ lực của hai bên, có tính đầy đủ đến luật pháp quốc tế, thực tiễn quốc tế cũng như sự nhân nhượng từ cả hai phía.

Một điểm cần nhấn mạnh là so với những quy định của các Công ước Pháp - Thanh trước đây th́ lời văn của Hiệp ước biên giới trên đất liền kư ngày 30/12/1999 đă xác định cụ thể và rơ ràng hơn đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việc xác định rơ ràng hơn đường biên giới trên đất liền bằng các phương tiện hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho quản lư và duy tŕ ổn định ở vùng biên giới.

Bước phát triển này giúp chúng ta thực hiện được mục tiêu xây dựng biên giới Việt - Trung thành đường biên giới ḥa b́nh, hữu nghị và ổn định, góp phần tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, tạo động lực thúc đẩy và phát triển quan hệ hợp tác mọi mặt với Trung Quốc theo phương châm " Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai ".

Việc giải quyết được vấn đề biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc là sự kiện quan trọng, có ư nghĩa lịch sử đối với nước ta cũng như quan hệ Việt- Trung, đồng thời là một nhân tố góp phần vào sự ổn định trong khu vực, được nhân dân cả nước hoan nghênh, thu hút sự chú ư của dư luận quốc tế và khu vực.
Nước ta đă kư kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia với Lào và Campuchia, Hiệp định phân định vùng biển với Thái Lan; thỏa thuận về khai thác chung vùng biển chồng lấn với Malaysia; hiện nay đang tích cực thúc đẩy đàm phán giải quyết một số vấn đề c̣n tồn tại về biên giới, lănh thổ với Campuchia và đàm phán với Indonesia về thềm lục địa. Trong bối cảnh đó, việc giải quyết được vấn đề biên giới trên đất liền qua việc kư Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa ta và Trung Quốc là bước tiến mới quan trọng trong việc tăng cường quan hệ ḥa b́nh, hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần tích cực vào việc củng cố ḥa b́nh và ổn định trong khu vực.

- T́nh h́nh triển khai công việc phân giới cắm mốc trên thực địa hiện nay như thế nào?

- Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam

- Trung Quốc đă được Quốc hội - cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước ta phê chuẩn ngày 9/6/2000 và chính thức có hiệu lực từ ngày 6/7/2000. Để thực hiện Hiệp ước này, căn cứ vào quy định của Hiệp ước, ta và Trung Quốc đă lập Ủy ban liên hợp phân giới, cắm mốc nhằm phân giới đường biên giới trên thực địa và đánh dấu đường biên giới này bằng hệ thống mốc giới ổn định, bền vững và chính xác. Việc hai bên tổ chức cắm những mốc giới đầu tiên tại các cặp cửa khẩu lớn Móng Cái - Đông Hưng, Lào Cai

- Hà Khẩu, Thanh Thủy - Thiên Bảo, Ma Lu Thàng - Kim Thủy Hà và Tà Lùng - Thủy Khẩu là những bước đi quan trọng trong việc triển khai công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa. Tại các ṿng đàm phán cấp Chính phủ lần thứ 7, 8, 9, Đoàn đàm phán hai bên đă kiểm điểm quá tŕnh chuẩn bị phân giới cắm mốc. Cho đến nay, Ủy ban liên hợp đă cơ bản hoàn thành các công việc chuẩn bị cho việc phân giới, cắm mốc trên thực địa như lập 12 nhóm phân giới, cắm mốc, thỏa thuận sẽ cắm 1533 mốc giới ( trước đây Pháp - Thanh chỉ cắm hơn 300 mốc giới ) và kư kết các văn kiện pháp lư - kỹ thuật cần thiết.

Hiện nay, 12 nhóm phân giới cắm mốc liên hợp đang tiến hành họp để bàn cụ thể và triển khai công tác phân giới, cắm mốc trên toàn tuyến bắt đầu từ tháng 9/2002. Hai bên đang phấn đấu để hoàn thành công việc phân giới, cắm mốc trong ṿng 3 năm. Sau đó kư Nghị định thư phân giới, cắm mốc cũng như Hiệp định về quy chế biên giới như thông thường lâu nay vẫn làm.

   
 

  Tri Nguyễn