|
Chúng tôi xin giới thiệu với độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư
Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á
(Institut Franco-Asiatique viết tắt là IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây
là bản dịch tiếng Việt của Tăng Hồng Minh. Trong dịp khai giảng niên học
này, IFA đă mời một số đông các học giả, trí thức và kư giả tham dự. Sau
bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị.
Xin nhắc lại, trong khoảng thời gian 1977-1992, tác giả làm việc cho
Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique,
viết tắt là CEP) và Ủy-ban trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical
Franco-Chinois viết tắt là CMFC), nên đă được các đồng nghiệp giúp đỡ,
dùng hệ thống ADN để t́m lại nguồn gốc dân tộc Việt-Nam.
Chính với công tŕnh nghiên cứu của tác giả, dùng hệ thống ADN phân biệt
dân-tộc Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đă kết thúc cuộc tranh căi 90 năm
qua biên giới cổ của ViệtNam.
Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược lại với tất
cả các thuyết từ trước đến giờ. Các thuyết này khẳng định người Việt do người
Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người
ở vùng Đông Nam Á đă đi lên phương Bắc thành người Hoa.
Từ năm 1991, có rất nhiều bản dịch bài diễn văn này sang nhiều thứ tiếng,
đăng trên nhiều báo khác nhau. Mỗi dịch giả lại tự ư lược đi, đôi khi cắt
mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi xin dịch nguyên bản, đầy đủ. V́ vậy độc giả
thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn, xin lướt qua.
Trong khi diễn giả tŕnh bầy, ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo
luận. Các bài trích đăng trước không ghi phần nàỵ Để độc giả dễ theo dơi,
cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép, chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ,
thay v́ ghi ở cuối bài.
Sở tu thư, viện Pháp-Á
Kính thưa ông Việntrưởng,
Kính thưa quư đồng nghiệp,
Kính thưa quư vị quan khách.
Các bạn sinh viên rất thân mến,
Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà
chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp
diễn trong suốt cuộc đời, vô t́nh đă đưa tôi đến đây tŕnh bày cùng quư vị
về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt.
Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cườị Tôi biết bạn bật
cười v́ đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi rọ C̣n tôi, tôi lại
nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quư-vị rằng,
về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên
đă trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoạ Nếu bạn chịu khó đọc
bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết :
« Trong lịch sử cổ kim nhân lọai, nếu có người may mắn về phương diện
nghiên cứu học hành, tôi đứng đầụ Nhưng nếu có người bất hạnh nhất trong
t́nh trường tôi cũng đứng đầu ».
Hôm nay tôi tŕnh bày với Quư-vị về công cuộc đi t́m biên giới cổ của nước
Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quư-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào,
và Quư-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết baọ Nhưng gần đây, v́
chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi điêu-tàn,
và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giớị
I SƠ TẦM VỀ TỘC VIỆT
Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng
chung cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-b́nh dương (ACTBD). Thầy khai
tâm của tôi là ông ngoại tôị Ông tôi là một đại thần của triều đ́nh Đại-Nam
(tức Việt-Nam).
Chế độ phong kiến của nước tôi đă chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị
Hoàng-đế cuối cùng của Đại-Nam là Bảo Đạị Ngài vẫn c̣n sống ở quận 16
Paris.
Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở
tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đ́nh Việt-Nam c̣n cho con học
chữ Nhọ Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không c̣n chỗ đứng trong đời sống
kinh tế, chính trị nữạ Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi
bi, đánh đáọ Nhưng v́ muốn làm vui ḷng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học
chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa măn trí thức
của tuổi thợ Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây
không ít th́ nhiều cũng đă học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như
thế nàọ Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đă thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu
tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thị Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm
chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Đại-học.
Chương tŕnh giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử
Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho,
đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổị
Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản
lược, để dạy học sinh ; không bằng một phần trăm những ǵ tôi học ở nhà.
Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường
bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôị Chính v́ vậy tôi phải
lần ṃ đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như :
Đại-Việt sử kư toàn thư (ĐVSKTT),
An-Nam chí lược (ANCL),
Đại-Việt thông-sử (ĐVTS),
Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM),
Đại-Nam nhất thống chí(ĐNNTC).
Đại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam
sau :
« Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến
núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục.
Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức
vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái
tử rằng :
« Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm
cương giớị Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều
hiếu hoà mà ở với nhaụ Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam.
Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ».
Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây th́ chia
làm hai :
1. Thần-Nông Bắc.
Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch)
Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch)
Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch)
Vua Du-Vơng (2752-2696 trước Tây-lịch).
Đến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ
năm giáp Tư (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại
Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-kư, Tư-mă Thiên khởi chép quyển một là
Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại
Thần-Nông.
2. Triều đại Thần-Nông Nam.
Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là
Kinh-Dương, lúc mười tuổị Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập
quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, v́ vậy người Việt tự
hào rằng đă có năm ngh́n năm văn hiến. (1)
Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch
sử, văn hóa, địa lư của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng
thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. C̣n như
đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức
tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đâỵ
Xét về cương giới cổ sử chép :
« Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương(2), đặt tên nước là
Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tâỵ Vua Kinh-Dương lấy con
gái vua Động-đ́nh là Long-nữơ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lăm. Thái-tử Sùng-Lăm lại
kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai(3). Khi vua Kinh-Dương băng hà
thái-tử Sùng-Lăm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang.
Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đ́nh, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục,
đông giáp biển Đông-hảị)
Cổ sử đến đây, không có ǵ nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép :
« Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm
con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị
giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối .
Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Động-đ́nh.(Nay là Hồ-Nam,
Quư-châu, Trung-quốc.)
Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận.(Nay là
Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.)
Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành.(Nay thuộc
Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Đồng-naị)
Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lăo-quạ(Nay là nước Lào
và một phần Bắc Thái-lan.)
Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hảị (Nay là Quảng-đông,
và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.)
Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm.(Nay thuộc Quảng-tây,
Trung-quốc.)
Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam.(Nay thuộc
Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-b́nh.)
Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân.(Nay thuộc
Việt-Nam từ Ninh-b́nh tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh)
Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ.(Nay là Bắc
Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.)
Ngài hẹn rằng : Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết,
để chầu hầu phụ mẫu ».
Một huyền sử khác lại thuật :
Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng :
« Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm
mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại
cánh đồng Tương một lần »
Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất
(2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con
vua Động-đ́nh làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ
và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốc-mẫụ Cho đến nay Quư-vị hỏi trăm người Việt ở
hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào :
« Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên. Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên
Âu-Cơ ».
Chủ đao của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin nàỵ |
|
Sinh viên Vũ-thị Thu-Dung hỏi:
" Thưa Giáo-sư, chúng tôi có đọc một bộ sách của nhà văn B́nh Nguyên Lộc
nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trong bộ sách đó, ông khẳng định rằng
người Việt gốc từ Mă-laị Xin Giáo-sư cho biết ư kiến?"
" Tôi chưa đọc bộ sách đó, vả có đọc tôi cũng không thể đem ra bàn luận ở
đây."
Giáo-sư Viện-trưởng:
" Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư
tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 người đă tŕnh bầỵ
Nhưng chỉ những tác giả sau đây được ghi vào album nghiên cứu:
-Edouard Chavannes trong bản dịch bộ Sử-kư của Tư Mă Thiên.
-Leonard Aurousseau trong bài nghiên cứu "La première conquête chinoise
des pays anamites" đăng trong tạp chí của trường Viễn-đông bác cổ của
chúng tôi tại Hà-nội (ư chỉ nước Pháp), kư hiệu BEFEO XXIIỊ 138-244.
-Claude Madrolle, trong bài Le Tonkin Ancien đăng trong BEFEO XXXVII
264-332.
-Lê Chí Thiệp, trong Văn-hóa nguyệt san (VNCH) số tháng 3-4 năm 1959.
-Đào Duy Anh, trong Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, được ông Hồ Hữu Tường cổ
vơ trong bộ Tương lai văn hóa Việt-Nam.
-Gần đây, giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ trong bộ Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, xb
năm 1985 ở Canadạ
-Một số các bài của giáo sư Lương Kim Định, Nguyễn Đăng-Thục và Tiến-sĩ
Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm-viện Hải-ngoại của Pháp-quốc..
Một số tác giả viết chỉ với mục đích khoa trương, lập dị, hoặc không có
căn cứ, hoặc thiếu kiến thức, chúng tôi không ghi vào thư mục nghiên cứu,
nên Giáo-sư Trần Đại-Sỹ không tham khảo, và dĩ nhiên không đem ra bàn ở
đây:
-Paul Francastel trong Origine du Việt-Nam, France Asie xb.
-Nguyễn Phương trong Tiến tŕnh h́nh thành dân tộc Việt-Nam, tạp chí
Đại-học Huế tháng 4 năm 1963.
-B́nh Nguyên Lộc trong tác phẩm mà em đă đọc."
IV PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨỤ
Trong việc đi t́m nguồn gốc tộc Việt, tôi đă dùng phương pháp y-khoa nhiều
nhất, và phương pháp khoa học mới đâỵ Tôi đă được giáo sư Tarentino về
khoa Anatomie của Ư và giáo sư sinh vật Vareilla Pascale của Pháp tích cực
giúp đỡ. Tôi chỉ muốn chứng minh rằng trong khoảng 5000 trước Tây-lịch,
lănh thổ tộc Việt nằm từ phía Nam sông Trường-giang tới vịnh Thái-lan.
Phía Tây tới tỉnh Tứ-xuyên Trung-quốc , phía Đông tới biển Nam-hảị Nghĩa
là bao gồm toàn bộ Hoa-Nam, và Đông-dương.
1.Dùng biện chứng y-khoa vào khảo cổ.
Biện chứng căn bản của ngườøi nghiên cứu y-khoa là :
« Khi có chứng trạng, ắt có nguyên do »
Biện chứng này đă giúp tôi rất nhiều trong khi nghiên cứu về nguồn gốc tộc
Việt. Khi nghiên cứu, những tài liệu cổ, dù là huyền thoại, dù là huyền
sử, dù là triết học, tôi cũng coi là chất liệu quan trọng.
Như tôi đă tŕnh bày, nước tôi có một tôn giáo, mà toàn dân đều theo đó là
thờ các anh hùng dân tộc. Tại những đền thờ chư vị anh hùng, thường có một
cuốn phổ kể sự tích các ngàị V́ theo thời gian, tiểu sử các ngài bị dân
chúng huyền thoại hóa đi, riết rồi thành hoang đường. Cho nên những học
giả đi tiên phong, nghiên cứu về sử học Việt thường bỏ quạ Tôi lại suy
nghĩ khác :
« Không có nguyên do , sao có chứng trạng ? ».
V́ vậy tôi đă t́m ra rất nhiều điều lư thú. Tỷ dụ : Bất cứ một nhà nghiên
cứu nào, khi khảo về thời vua An-Dương cũng cho rằng chuyện thần Kim-quy
do vua móng làm nỏ bắn một lúc hàng ngh́n mũi tên khiến Triệu-Đà bị bại là
hoang đường, là ma trâu đầu rắn. Nhưng tôi lại tin và cuối cùng tôi t́m ra
sự thật. (chú thích của cubi: phân khoa khảo cổ Trường Đại Học Hà Nội cùng
một số nhà khảo cổ của Trường Đại Học Hawaii và New Zeand đă t́m thấy
những di chỉ của triều đại vua An Dương Vương như thành Cổ Loa, các mũi
tên đồng ... trong cuộc khai quật vùng ṿng đai cách Hà Nội 15 km vào năm
1980)
Hồi ấy Cao Cảnh hầu Cao Nỗ đă chế ra nỏ liên châu, như súng liên thanh
ngày naỵ Tôi cũng t́m ra kích thước của ba mũi tên đồng của nỏ nàỵ(4)
Trước tôi đă có các nhà khảo cổ căn cứ vào xương sọ t́m được tại Trung và
Bắc-phần (70 cái). Trong đó có 38 cái do người Pháp sưu tầm thuộc thời đại
Đồ-đá, th́ 29/38 cái được kết luận là thuộc chủng loại Malanésien,
Indonésien, Australoide hay Nam-á. Với 29 cái th́ không thể kết luận rằng
đó là toàn thể. Gần đây các học giả Việt-Nam lại t́m ra 32 xương sọ, thuộc
thời đại Đồ-sắt (1000 năm trước Tây-lịch đến 300 sau Tây-lịch), th́ 22/27
thuộc chủng loại Mongoidẹ Với 32 cái th́ không thể kết luận rằng đó là
toàn thể tộc Việt thuộc chủng loại Mongoidẹ
Những tác giả trên đă căn cứ vào chỉ số xương sọ de kết luận. Nhưng y học
đă tiến bộ, căn cứ vào chỉ số xương sọ để định nguồn gốc đă bị đánh đổ.
Nguyên do : Khi con người di cư đến vùng khác, bị khí hậu, bị nước uống,
bị thực phẩm làm thay đổi xương sọ. Chúng tôi dùng hệ thống ADN, hệ thống
sinh học mới nhất thử nghiệm ngay những người đang sống của 35 ḍng họ tại
Hoa Nam với Việt-Nam, rồi với những ḍng họ khác tại Hoa Bắc. Lại cũng thử
nghiệm những bộ xương của ba vùng trên, không phân biệt thời gian. Cuối
cùng chúng tôi t́m ra sự khác biệt của những tộc Hoa Nam, Việt Nam với
những tộc Hoa Bắc, và đi đến kết luận : lănh thổ Văn-lang, tới hồ
Động-đ́nh. (5)
Ghi chú của Tăng Hồng Minh
Một quan khách, nữ giáo sư khoa Thiên-văn học tên Madeleine Chevalier hỏi:
"ADN là ǵ? Tôi nghe nói, cũng như đọc trên báo hoài, mà không biết rơ chi
tiết cái hệ thống nàỷ"
Trần Đại-Sỹ:
" Tôi xin nhường lời cho Giáo-sư Vareilla Pascale chuyên khoa về vấn đề
này trả lờị"
Vareilla Pascale:
" Cảm ơn Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đă cho tôi danh dự trả lời Giáo-sư Chevalier.
ADN viết tắt của từ Acide désoxyribonucléique, tiếng Anh là
Deoxyribosenucleic acide, viết tắt là DNẠ"
( Phần này khá dài, khoảng 20 trang A4, chúng tôi không dịch hết, v́ quá
chuyên môn, chỉ dành cho sinh viên y khoạ Vả phần này quí độc giả có thể
t́m đọc trong bất cứ bộ tự điển Encyclopédie của Pháp hay Anh, Mỹ nàọ)
2. Những vấn đề.
Ranh giới phía Nam của nước Văn-lang tới nước Hồ-tôn đă quá rơ ràng. Ranh
giới phía Tây với Ba-thục, phía Đông với biển lại tùy thuộc vào ranh giới
phía Bắc. Nếu như ranh giới phía Bắc qủa tới hồ Động-đ́nh, th́ ranh giới
phía Tây chắc phải giáp Ba-thục và phía Đông phải giáp Đông-hảị Có thực
như thế không?
V́ vậy tôi đi t́m ranh giới phía Bắc.
Dưới đây là huyền thọai, huyền sử mà tôi đă bấu víu vào để đi nghiên cứụ
Tôi cần tra cứu cho ra:
Vấn đề thứ nhất,
Cổ sử Việt đều nói rằng ranh giới phía Bắc tới hồ Động-đ́nh. Có thực như
vậy không?
Truyền thuyết nói Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, rồi chia thiên hạ làm
haị Từ Ngũ-lĩnh về Bắc cho Đế-Nghi, sau thành Trung-quốc. Từ Ngũ-lĩnh về
Nam truyền cho vua Kinh-Dương sau thành Văn-lang.
Núi Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh nay vẫn c̣n. Nhưng liệu có di tích ǵ chứng
minh chăng? Tôi phải đi t́m Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh
Vấn đề thứ nh́,
Truyền thuyết nói : Sau khi vua Kinh-Dương, vua Lạc-Long kết hôn, đều lên
núi Tam-sơn trên hồ Động-đ́nh hưởng thanh phúc ba năm. Lúc ngài lên núi có
chín vạn hoa tầm xuân nở. Tôi phải đi t́m núi Tam-sơn ở hồ Động-đ́nh. Liệu
trên núi này có di tích ǵ về cuộc t́nh năm ngh́n năm trước chăng?
Vấn đề thứ ba,
Truyền sử nói : Sau khi Quốc-tổ Lạc-Long, Quốc-mẫu Âu-Cơ cho các hoàng tử
đi bốn phương qui dân lập ấp, dặn rằng : Mỗi năm về Tương-đài chầu
Quốc-tổ, Quốc-mẫu một lần.
Cổ sử nói : Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con
lên núi, hẹn mỗi năm một lần gặp nhau ở cánh đồng Tương.
Cánh đồng Tương ở đâủ Nếu có cánh đồng Tương th́ cũng có thể kết luận rằng
biên giới nước Văn-lang tới hồ Động-đ́nh. Tôi phải đi t́m.
Vấn đề thứ tư,
chứng tích thứ nhất xác định:
Bộ Sử-kư của Tư-mă, Nam-Việt liệt truyện có thuật việc: vua nước Nam-Việt
là Triệu-Đà thường đem quân quấy nhiễu biên giới Việt-Hán là Nam-quận,
Trường-sa (Mậu-Ngọ 183 trước Tây-lịch).
Như vậy biên giới Nam-Việt (Tức Việt-Nam) với Hán ( Tức Trung-quốc) ở vùng
nàỵ Ngày nay Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam, nằm ngay Nam ngạn sông
Trường-giang.
Vấn đề thứ năm,
Huyền sử nói rằng : trong cuộc khởi nghĩa của vua Trưng:
-Khi Trưng Nhị, Trần Năng, Phật Nguyệt, Lại Thế-Cường, Trần Thiếu-Lan đem
quân đánh Trường-sa (39 sauTây-lịch), th́ nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận,
mộ chôn ở ghềnh Thẩm-giang (sự thật đó là Tương-giang thông với hồ
Động-đ́nh).
-Sau đó ít năm có trận đánh giữa Lĩnh-Nam và Hán (42 sau Tây-lịch).
Tướng Lĩnh-Nam tổng trấn hồ Động-đ́nh là Phật Nguyệt, tướng Hán là Mă
Viện, Lưu Long (40 sau Tây-lịch).
Có thực thế không? Có hai trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh không? Nếu có th́
ranh giới thời Lĩnh-Nam (40-43 sau Tây-lịch) quả tới hồ Động-đ́nh.
Vấn đề thứ sáu,
Năm 42, sau Tây-lịch, ba tướng thống lĩnh Kỵ-binh thời vua Trưng là Đào
Chiêu-Hiển, Đào Đô-Thống, Đào Tam-Lang, đánh nhau với quân Hán tại Bồ-lăng
thuộc Tượng-quận, v́ quân ít, thế cô, ba ông tự tử. Vậy Bồ-lăng ở đâủ Có
trận này không? Nếu có trận này th́ ranh giới Lĩnh-Nam phía Tây quả tới
Ba-thục (Tứ-xuyên.)
Thưa Quư-vị,
Nhưng các sử gia gần đây đều đặt nghi vấn rằng : Làm ǵ biên giới thời
Văn-Lang rộng như vậỷ Nếu có chỉ ở vào phía Bắc biên giới Hoa-Việt hiện
nay trăm cây số là cùng.
Tôi căn cứ vào những chứng trạng trên mà đi t́m nguồn gốc.
V ĐI T̀M BIÊN GIỚI NƯỚC VĂN- LANG.
1.Núi Ngũ-lĩnh.
Cuối năm Canh-Thân (1980) tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, rồi đổi máy bay ở
Bắc-kinh đi Trường-sạ Trường-sa là thủ phủ của tỉnh Hồ-nam. Tất cả di tích
của tộc Việt như hồ Động-đ́nh, núi Tam-sơn, núi Ngũ-lĩnh, sông Tương,
Thiên-đài, Tương-đài, cánh đồng Tương đều nằm ở tỉnh này.
Tôi đi nghiên cứu với một thư giới thiệu của giới chức cao cấp y học
Pháp-Hoa (CMFC). Có một sự hiểu lầm lớn, v́ trong thư giới thiệu các giới
chức y-khoa chỉ xin được giúp đỡ cho tôi, nên khi tôi muốn tiếp xúc với sở
du-lịch, ty văn hóa địa phương, họ đều tưởng tôi tới Trường-sa để nghiên
cứu sự cấu tạo h́nh thể cùng bệnh tật dân chúng tại đâỵ Thành ra tôi bị
mất khá nhiều th́ giờ nghe thuyết tŕnh của các đồng nghiệp về vấn đề nàỵ
Tôi cư ngụ trong khách sạn Trường-sa tân điếm nằm trên đại lộ Nhân-dân.
Tôi mua cuốn địa phương chí mới nhất của tỉnh, rồi ṃ vào thư viện ty văn
hóa, sở bảo vệ cổ-tích, đại-học văn-khoa, lục lọi những tài liệu cổ, mà
ngay những sinh viên văn khoa cũng ít ai ghé mắt tới.
Đầu tiên tôi đi t́m núi Ngũ-lĩnh. Không khó nhọc, tôi thấy ngay đó là năm
dăy núi gần như ngăn đôi Nam, Bắc Trung-quốc :
-Một là Đại-dữu lĩnh.
-Hai là Quế-dương, Kỳ-điền lĩnh.
-Ba là Cửu-chân, Đô-lung lĩnh.
-Bốn là Lâm gia, Minh-chữ lĩnh.
-Năm là Thủy-an, Việt-thành lĩnh.
Về vị trí :
-Ngọn Thủy-an, Việt-thành chạy từ tỉnh Phúc-kiến, đến huyện Tuần-mai tỉnh
Quảng-đông.
-Ngọn Đại-dữu chạy từ huyện Đại-dữu (Nam-an), tỉnh Giang-Tây đến huyện
Nam-hùng tỉnh Quảng-đông.
-Ngọn Cửu-chân, Đô-lung chạy từ Đạo-huyện tỉnh Hồ-nam tới Gia- huyện tỉnh
Quảng-tâỵ
-Ngọn Lâm-gia, Minh-chữ chạy từ Lâm-huyện tỉnh Hồ-Nam đến Liên-huyện tỉnh
Quảng-Đông.
-Ngọn Quế-dương từ Toàn-huyện tỉnh Hồ-nam tới huyện Quế-lâm tỉnh Quảng-tây
.
Lập tức tôi thuê xe đi một ṿng thăm các núi nàỵ Tôi đi mất mười ngày,
trải gần 15.000 cây số .
Như vậy là Ngũ-lĩnh có thật, nay có núi đă đổi tên, có núi vẫn giữ tên cũ.
Một câu hỏi đặt ra : Tại sao khi vua Minh phân chia từ Ngũ-lĩnh về Nam
thuộc Lộc-Tục mà lĩnh địa Việt tới hồ Động-đ́nh, mà hồ ở phía Bắc núi đến
mấy trăm cây số. Tôi giải đoán như thế này :
-Một là vua Minh tế trời ở trên núi Ngũ-lĩnh là nơi người gặp tiên rồi
chia địa giớị Nhưng bấy giờ dân chưa đông, mà sông Trường-giang rộng mênh
mông, sóng lớn quanh năm nên vua Nghi chỉ giữ từ Bắc ngạn mà thôị C̣n vua
Kinh-Dương th́ sinh trưởng ở vùng này, lại nữa lấy con vua Động-đ́nh (một
tiểu quốc), nên thừa kế luôn vùng đất của nhạc gia.
-Hai là dân chúng Nam-ngạn Trường-giang với vùng Nam Ngũ-lĩnh vốn cùng một
khí hậu, phong tục, nên họ theo về Nam không theo về Bắc, thành thử hồ
Động-đ́nh mới thuộc lănh địa Việt.
Kết luận :
« Quả có núi Ngũ-lĩnh phân chia Nam, Bắc Trung-quốc hiện thời, vậy có thể
núi này đúng là nơi phân chia lănh thổ Văn-Lang và Trung-Quốc khi xưa ».
Ánh sáng đă soi vào nghi vấn huyền thọaị
2. Thiên-đài nơi tế cáo của vua Minh.
Tương truyền vua Minh lập đàn tế cáo trời đất trên núi Quế-dương, phân
chia lănh thổ Lĩnh-Bắc tức Trung-Quốc, Lĩnh-Nam tức Đại-Việt. Đàn tế đó
gọi là Thiên-đàị Nhưng dăy núi Quế-dương có mấy chục ngọn núi nhỏ không
biết ngọn Thiên-đài là ngọn nào ? Trên bản đồ không ghị Sau tôi hỏi thăm
dân chúng th́ họ chỉ cho tôi thấy núi Thiên-đài nằm gần bên bờ Tương-giang.
Điều này dễ hiểu, tỷ như ngày nay, du khách nh́n bản đồ sẽ không thấy địa
điểm Sài-g̣n. Nhưng trong dân chúng, họ vẫn nhớ tên cũ.
Tôi đi thăm Thiên-đài.
Thiên-đài là ngọn đồi nhỏ, cao 179m, đỉnh tṛn có đường thoai thoải đi lên.
Trên đỉnh có ngôi chùa nhỏ, nay để hoang. Tuy chùa được cấp huyện bảo tồn
nhưng không có người trụ tŕ. Chùa xây bằng gạch nung, mái lợp ngói.
Lâu ngày chùa không được tu bổ, nhiều chỗ ngói bị lở, bị khuyết. Tường mất
hết vữa, gạch bị ṃn nhiều chỗ gần như lún sâụ Duy nền với cổng bằøng đêá
là c̣n nguyên, tuy nhiều chỗ đá bị bong rạ Bên trong cột kèo bằng gỗ đă
nứt nẻ khá nhiềụ Những câu đối , chữ c̣n, chữ mất.
Tại thư viện Hồ-nam tôi t́m được một tài liệu rất cũ, giấy hoen ố , nhưng
chữ viết như phượng múa rồng bay, gồm 60 trang. Đầu đề ghi
Thiên-đài di sự lục
Trinh-quán tiến sĩ Chu Minh-Văn sọan.
Trinh-quán là niên hiệu của vua Đường Thái-Tông, từ năm Đinh-Hợi (627) đến
Đinh-Mùi (647) nhưng không biết Chu đỗ tiến-sĩ năm nào ?
Tuy sách do Chu Minh-Văn soạn, nhưng dường như bản nguyên thủy không c̣n.
Bản này do người sau sao chép lại vào đời Thanh Khang-Hỵ Nội dung sách có
ba phần. Phần của Chu Minh-Văn sọan, phần chép tiếp theo Chu Minh-Văn, của
một sư ni tên Đàm-Chi, không rơ chép vào bao giờ. Phần thứ ba chép pháp
danh các vị trụ tŕ từ khi lập chùa tới thời Khang-Hy (1662-1772). Chu
Minh-Văn là tiến sĩ đời Đường, nên văn của ông thuộc loaị văn cổ rất súc
tích, đầy những điển cố cùng thành ngữ lấy trong Tứ-thư, Ngũ-kinh cùng
kinh Phật.
Nhân viên quản thủ thư viện thấy tôi đọc dễ dàng, chỉ lướt qua là hiểu
ngay, ông ta ngạc nhiên khâm phục vô cùng. Nhưng nếu ông ấy biết rằng, tôi
chỉ được học lọai văn đó vào hồi sáu, bảy tuổi th́ ông sẽ hết phục. Tài
liệu Chu Minh-Văn cũng nhắc lại việc vua Minh đi tuần thú phương Nam, kết
hôn với nàng tiên sinh ra Lộc-Tục.Vua lập đàn tại núi này để tế cáo trời
đất, v́ vậy đài cũng mang tên Thiên-đài núi cũng mang tên Thiên-đài sơn,
Minh-Văn c̣n kể thêm :
« Cổ thời trên đỉnh núi chỉ có Thiên-đài thờ vua Đế Minh, vua Kinh-Đương.
Đến thời Đông-Hán, một tướng của vua Bà tên Đào Hiển-Hiệu được lệnh rút
khỏi Trường-sạ Khi rút tới Quế-dương ông cùng ngh́n quân lên Thiên-đài lễ,
nghe người giữ đền kể sự tích xưạ Ông cùng quân sĩ nhất định tử chiến,
khiến Lưu Long thiệt mấy vạn người mới chiếm đươc núị Về đời Đường để xóa
vết tích Việt-Hoa cùng Nam Bắc, các quan được sai sang đô hộ Lĩnh-Nam mới
cho xây chùa tại đây ».
Tôi biết vua Bà là vua Trưng, c̣n tướng Đào Hiển-Hiệu là em con chú của Bắc-b́nh
vương Đào Kỳ. Ngài Đào Kỳ lĩnh chức Đại Tư-mă thời vua Trưng. C̣n tướng Đào
Hiển-Hiệu tước phong quốc công, giữ chức Hổ-nha đại tướng quân. Nữ tướng
Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy trận rút lui khỏi Trường-sa, hồ Động-đ́nh, đă sai
Hiển-Hiệu đi cản hậu, đóng nút chặn ở Thiên-đài, đợi quân Lĩnh-Nam rút
hết, sẽ rút saụ Nhưng Hiển-Hiệu cùng chư quân lên núi thấy di tích thời
Quốc-tổ, Quốc-mẫu, đă không chịu lui quân, tử chiến, khiến quân Hán chết
không biết bao nhiêu mà kể tại đây.
Ngoài cổng chùa có hai đôi câu đối :
Thoát thân Nam thành xưng sư tổ,
Thọ pháp Tây-thiên diễn Phật- kinh.
Hai câu này ngụ ư ca tụng Thái-tử Tất-Đạt-Đa đang đêm ra khỏi thành đi t́m
lẽ giải thoát sau đó đắc pháp ở Tây-thiên, đi giảng kinh.
Tam bảo linh ứng, phong điều vũ thuận,
Phật công hiển hách quốc thái an dân.
Hai câu này là ngụ ư nói : Tam bảo linh thiêng, khiến cho mưa thuận, gió
ḥa đó là công lao của nhà Phật khiến quốc thái dân an .
Nơi có dấu vết Thiên- đài, c̣n đôi câu đối khắc vào đá :
Thiên-đài đại đại phân Nam, Bắc.
Lĩnh địa niên niên dữ Việt-thường.
Nghĩa là : Từ sau vụ vua Minh tế cáo ở đây, đài thành Thiên-đài, biết bao
đời phân ra Nam, Bắc. Núi Ngũ-lĩnh năm này qua năm khác với gịng giống
Việt-thường.
Chỗ miếu thờ của Đào Hiển-Hiệu có đôi câu đối :
Nhất kiếm Nam-hồ kinh Vũ-đế,
Thiên đao Bắc-lĩnh trấn Lưu Long.
Nghĩa là : Một kiếm đánh trận ở phía Nam hồ Động-đ́nh làm kinh tâm vua
Quang-Vũ nhà Hán. Ư chỉ nữ tướng Phật-Nguyệt đánh bại Mă Viện ở phía Nam
hồ Động-đ́nh. Một ngh́n tay đao do Hiển-Hiệu thủ ở Bắc núi Ngũ-lĩnh trấn
Lưu Long.
Kết luận :
« Như vậy việc vua Minh tế cáo trời đất là có thật. V́ có Thiên-đài nên
thời Lĩnh-Nam mới có trận hồ Động-đ́nh. Hai sự kiện đó chứng tỏ lănh địa
thời vua Trưng cũng như Văn-Lang xưa qủa tới Ngũ-lĩnh, hồ Động-đ́nh ».
3.Cánh đồng Tương,
Nhắc lại: Có hai huyền sử nói về cánh đồng Tương :
-Một là Quốc-tổ dẫn năm mươi con xuống biển, Quốc-mẫu dẫn năm mươi con lên
núi, mỗi năm tái hội nhau trên cánh đồng Tương một lần.
-Hai là Quốc-tổ, Quốc-mẫu truyền các hoàng tử đi khắp bốn phương quy dân
lập ấp, mỗi năm hội tại cánh đồng Tương một lần.
Tôi đoán :
Cả hai vị Quốc-tổ Kinh-Dương, Lạc-Long sau khi kết hôn đều đem Quốc-mẫu
lên núi Tam-sơn trên hồ Động-đ́nh hưởng thanh phúc ba năm.Vậy th́ cánh đồng
Tương sẽ gần đâu đó trên hồ Động-đ́nh.
Phía Nam hồ Động-đ́nh là sông Tương-giang, chảy theo hướng Nam-Bắc dài 811
km, lưu vực tới 92500km2, chẻ đôi tỉnh Hồ-nam với Quảng-tâỵ Vậy cánh đồng
Tương sẽ nằm trong lưu vực Tương giang.
Tôi thuê thuyền đi từ cảng Dương-lâm nơi xuất phát ra Tương-giang là hồ Động-đ́nh,
xuống Nam, qua Tương-âm, tôi dừng lại, nghiên cứu địa thế cùng thăm chùa
Bạch-mă. Đây là địa phận quận Ích-dương.
Vô t́nh tôi t́m ra một nhánh sông Âu-giang và một cái hồ rất lớn, vào mùa
nước lớn rộng tới 4-5 mẫu, vào mùa nước cạn chỉ c̣n 2-3 mẫu mà thôị Suốt
lộ tŕnh từ hồ Động-đ́nh trở xuống, trên cửa sông Tương cũng như hai bên
bờ chim Âu bay lượn khắp nơị Đặc biệt trên Âu-giang, Âu-hồ, giống chim này
càng nhiều vô kể. Từ Âu-giang, tôi trở lại sông Tương, xuôi tới Trường-sa
thủ phủ của Hồ-nam rồi tới các quận lỵ Tương-đàm, Chu-châu, Hành-dương,
Quế-dương.
Không khó nhọc tôi t́m ra :
« Cánh đồng Tương, tức là vùng trũng phía Tây-ngạn, giới hạn phía Bắc là
hồ Động-đ́nh, Nguyên-giang. Phía Nam là Linh-lăng, Hành-giang. Phía Tây là
vùng Chiêu-dương, Lănh-thủỵ Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ c̣n khu vực tứ
giác : Tương-giang, Nguyên-giang, Liên-thủy, Thạch-khê-thủy ».
Sau khi t́m ra cánh đồng Tương, Thiên-đài, cùng những đàn chim âu , tôi
giải đoán như thế này :
« Quốc-tổ Lạc Long kết hôn với công chúa con Đế-Lai, hẳn công chúa cũng có
tên. Nhưng v́ lâu ngày người ta không nhớ được tên ngài, nên đă lấy con
chim Âu, rất hiền ḥa, xinh đẹp ở vùng hồ Động-đ́nh, Tương-giang mà gọi là
Âu-Cơ (Cơ là vợ vua). V́ người ta gọi Quốc-mẫu là Âu-Cơ, th́ họ nghĩ ngay
đến Quốc-mẫu sinh đẻ. Khi chim Âu đẻ th́ phải đẻ ra trứng. C̣n con số một
trăm, là con số triết học Việt-Hoa dùng để chỉ tất cả. Như trăm bệnh là
tất cả các bệnh, trăm họ là toàn dân. Trăm con có nghĩa là tất cả dân
ttrong nước đều là con Quốc-mẫu »
Kết luận :
« Đă có cánh đồng Tương, th́ chuyện Quốc-tổ, Quốc-mẫu hẹn mỗi năm hội tại
đây một lần là có. Khi sự kiện có núi Ngũ-lĩnh, có Thiên-đàị Nay chứng cớ
được kiểm điểm, th́ lănh địa của tộc Việt xưa quả tới hồ Động-đ́nh ».
4. Hồ Động-đ́nh và Tam-sơn
Hồ Động-đ́nh nằm ở phía Nam sông Trường-giang. Hồ được coi như nơi phát
tích ra tộc Việt. Địa khu Bắc sông Trường-giang được gọi là tỉnh Hồ-bắc,
tức đất Kinh-châu thuở xưạ Địa khu phía Nam sông Trường-giang được gọi là
tỉnh Hồ-nam. Hồ Động-đ́nh nằm trong tỉnh Hồ-nam. Hồ thông với sông Trường-giang
bằng hai con sông.
Cho nên người ta coi hồ như nơi chứa nước sông Trường-giang, rồi đổ vào
Tương-giang. Trên Bắc-ngạn hồ có núi Tam-sơn.
Tôi đă lên đây ba lần. Tương truyền các các nữ tướng thời vua Trưng như
Trưng-Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Phật Nguyệt, Trần Thiếu-Lan đánh chiếm Trường-sa
vào ngày đầu năm, v́ vậy tôi cũng tới đây vào dịp này để thấy rơ phong cảnh,
rồi tả trận đánh trong bộ Cẩm-khê-di-hận(6). Hồ rộng 3915 cây số vuông, độ
sâu về mùa cạn là 38,5 mét, về mùa nước lớn là 39,20 mét. Tra trong chính
sử th́ quả hồ Động-đ́nh thuộc lănh địa Văn-Lang. Như trên đă nói, triều
đại Thần-Nông Bắc đến đời vua Du-Vơng th́ mất vào năm 2696 trước Tây-lịch,
chuyển sang thời đại Hoàng-Đế. Sử gia Trung-Quốc cho rằng Hoàng-Đế là tổ
lập quốc. Nói theo triết học Tây phương th́ vua Du-Vơng gốc từ Thần-Nông
thuộc nông nghiệp cư trú trong vùng đồng bằng ở phương Nam lấy hỏa làm
biểu hiệu nên c̣n gọi là Viêm-đế. C̣n vua Hoàng-đế gốc ở dân du mục, săn
bắn, từ phương Bắc xuống. Dân du mục nghèo, nhưng giỏi chinh chiến. Dân
nông nhiệp giàu nhưng không giỏi vơ bị nên bị thuạ Bộ Sử-kư của Tư-mă-Thiên,
quyển 1, Ngũ-đế bản kỷ chép rằng :
«...Thời vua Hoàng-đế, họ Thần-Nông (Bắc) đă suy, chư hầu chém giết lẫn
nhau, khiến trăm họ khốn khổ vô cùng. Triều Thần-Nông không đủ khả năng
chinh phục. Vua Hiên-Viên Hoàng-Đế thao luyện can qua, chinh phục những chư
hầu hung ác. V́ vậy các nơi theo về rất đông. Trong các chư hầu th́ Suy-Vưu
mạnh nhất.
Vua Du-Vơng triều Thần-Nông định đem quân xâm lăng chư hầu, nhưng chư hầu
chỉ tuân lệnh Hoàng-Đế. Vua Hoàng-Đế tu sửa đức độ, luyện tập binh mă, vỗ
về trăm họ, giúp đỡ bốn phương, luyện tập thú dữ rồi đại chiến với vua
Du-Vơng ở Bản-tuyền, thành công.
Suy-Vưu làm lọan, không tuân đế hiệụ Hoàng-Đế triệu tập chư hầu cùng
Suy-Vưu đại chiến ở Trác-lộc, bắt sống Suy Vưụ Chư hầu tôn ngài làm
Thiên-tử thay họ Thần-Nông. Trong thiên hạ nơi nào không thuận vua
Hoàng-Đế đem quân chinh phục.
Lănh thổ của Hoàng-Đế, Đông tới biển, vùng núi Hoàn-sơn, Đại-tông. Phía
Tây tới núi Không-động, Kê-đầụ Nam tới Giang, Hùng, Tương... »(7)
Sông Giang đây tức là sông Trường-giang, Hùng đây tức là Hùng-nhĩ-sơn,
Tương là Tương-sơn. Bùi Nhân đời Tống lập giải Sử-kư nói rằng Tương-sơn
thuộc Trường-sa.
Kết luận :
« Từ chính sử, huyền-sử đều cho biết lĩnh địa Văn-lang tới hồ Động-đ́nh.
Khi vua Hoàng-Đế dứt triều Thần-Nông Bắc, th́ triều Thần-Nông Nam tức họ
Hồng-bàng c̣n kéo dài đến 2439 năm nữạ Lănh thổ Trung-quốc thời Hoàng-Đế
cũng chỉ tới sông Trường-giang. Phía Nam bao gồm Trường-sa, hồ Động-đ́nh
vẫn thuộc Văn-lang.
Khi chính sử ghi chép như vậy th́ việc Quốc-tổ, Quốc-mẫu với hồ Động-đ́nh,
núi Tam-sơn không c̣n là huyền thoại nữạ Vậy chuyện các ngài lên núi hưởng
thanh phúc nên ghi vào chính sử.
5. Biên giới lĩnh địa tộc Việt thế kỷ 2 trước Tây lịch.
Sử Hán là bộ Sử-kư của Tư-mă Thiên. Sử Việt như bộ Đại-Việt sử kư toàn
thư, Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục, đều ghi rằng vào thế kỷ thứ
nh́ trước Tây-lịch, thời Triệu Đà cai trị lĩnh địa tộc Việt, biên giới vẫn
c̣n ở vùng Trường-sa, hồ Động-đ́nh.
Sử Hán, sử Việt đều chép chi tiết giống nhau về vụ Triệu Đà lập quốc ở
lănh thổ Lĩnh-Nam. Tần Thủy- Hoàng sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-lạc,
chiếm được vùng đất phía Bắc, lập làm ba quận :
-Nam-hải (Quảng-đông và một phần Phúc-kiến),
-Quế-lâm (Quảng-tây, Hồ-nam và một phần Quí châu),
-Tượng-quận (Vân-nam và một phần Quư-châu).
Vua An-Dương sai Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung và Cao-cảnh hầu Cao Nỗ đem
quân chống, giết được Đồ Thư và tiêu diệt nữa triệu quân Tần. Tuy vậy vua
An-Dương cũng không chiếm lại vùng đất đă mất.
Sau nhân thời thế loạn lạc, một viên quan Tần là Triệu Đà trấn vùng
Nam-hải, đem quân chiếm vùng Tượng-quận, Quế-lâm, rồi dùng gián điệp trong
vụ án Mỵ-Châu, Trọng-Thủy mà chiếm được Âu-lạc lập ra nước Nam-Việt. Lănh
thổ nước Nam-Việt bao gồm những vùng nào ? Không một sử gia nào chép rơ
ràng.
Nhưng cứ những sự kiện lẻ tẻ, ta cũng có thể biết rằng lănh địa Nam-Việt
là lănh địa thời Văn-lang.
Trong khi Triệu Đà lập nghiệp ở phương Nam, th́ cuộc nội chiến ở phương
Bắc chấm dứt. Hạng Vũ, Lưu Bang diệt Tần, rồi Lưu Bang thắng Hạng Vũ lập
ra nhà Hán. Lưu Bang lên ngôi vua sai Lục Giả sang phong chức tước cho
Triệu Đà. Đúng ra Triệu Đà cũng không chịu thần phục nhà Hán, nhưng họ
hàng thân thuộc, mồ mả của Triệu Đà đều ở vùng Chân-định. Đà sợ nhà Hán
tru diệt họ hàng, cùng đào mồ cuốc mả tổ tiên lên mà phải lùi bước.
Năm 183 trước Tây-lịch, Cao-tổ nhà hán là Lưu Bang chết, Lă-hậu chuyên
quuyền cấm bán hạt giống, thú vật cái, kim khí sang Nam-Việt. Triệu Đà
không thần phục nhà Hán, rồi đem quân đánh Trường-sa, Nam-quận.
Kết luận :
« Trường-sa là quận biên cương của Hán. Vậy ít nhất lănh thổ Nam-Việt, Bắc
tới Trường-sạ Nam quận là quận ở phía Bắc sông Trường-giang. Mà Nam-quận
là quận biên cương Hán, th́ biên giới Nam-Việt ít nhất tới Nam-ngạn sông
Trường-giang ».
6. Lĩnh địa thời vua Trưng
6.1. Vua Bà của Trung-quốc là vua Trưng,
Trong những năm 1978-1979 khi dẫn phái đoàn Ủy-ban y học Pháp-Hoa (CMFC)
đi trao đổi tại các tỉnh cực Nam Trung-Quốc như Quảng-đông, Quảng-tây,
Vân-nam, Quư-châu và Tứ-xuyên... tôi thấy khắp các tỉnh này, không ít th́
nhiều đều có đạo thờ vua Bà. Nhưng tôi không t́m được tiểu sử vua Bà ra
sao.
Ngay những cán bộ Trung-quốc ở địa phương, họ luôn đề cao vua Bà, mà họ
cũng chỉ biết lờ mờ vua Bà là người nổi lên chống tham quan. Khắp năm
tỉnh, tôi ghi chú được hơn trăm đền, miếu thờ những tướng lĩnh thời vua
Bà.
Bấy giờ tôi lại t́m thấy ở Hồ-nam, nhiều di tích về đạo thờ vua Bà hơn.
Tại thư viện bảo tồn di tích cổ , tôi t́m thấy một cuốn phổ rất cổ, soạn
vào thế kỷ thứ tám chép sự tích nữ vương Phật Nguyệt như sau :
« Ngày xưa, Ngọc-hoàng Thượng-đế ngự trên điện Linh-tiêu, có hai công chúa
đứng hầụV́ sơ ư hai công chúa đánh vỡ chén ngọc. Ngọc-hoàng Thượng-đế nổi
giận đầy hai công chúa xuống hạ giớị Hai công chúa đi đầu thai được mấy
ngày th́ Tiên-lại giữ sổ tiên-giới tâu rằng có 162 tiên đầu thai xuống
theo hai công chúạ Ngọc-hoàng Thượng-đế sợ công chúa làm loạn ở hạ giới,
ngài mới truyền Thanh-y đồng tử đầu thai để theo dẹp loạn. Thanh-y đồng tử
sợ địch không lại hai công chúa, có ư ngần ngừ không dám đị Ngọc-hoàng
Thượng-đế truyền Nhị thập bát tú đầu thai theo.
Thanh-y đồng tử sau là vua Quang Vũ nhà Hán. Nhị thập bát tú đầu thai
thành hai mươi tám vị văn thần vơ tướng đời Đông-Hán.
C̣n hai công chúa đầu thai xuống quận Giao-chỉ, vào nhà họ Trưng. Chị là
Trắc, em là Nhị. Lúc Trưng Trắc sinh ra có hương thơm đầy nhà, thông minh
quán chúng, có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, được gả cho Đặng Thi-Sách.
Thi-Sách làm phản, bị Thái-thú Tô Định giết chết. Trưng Trắc cùng em là
Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa, được 162 anh hùng các nơi nổi lên giúp sức,
nên chỉ trong một tháng chiếm hết sáu quận của Trung-quốc ở phía Nam sông
Trường-giang : Cửu-chân, Nhật-nam, Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hảị
Chư tướng tôn Trưng Trắc lên làm vua, thường gọi là vua Bà.
Quang-Vũ nhà Hán sai Phục-ba tướng quân Tân-tức hầu Mă Viện. Long-nhương
tướng quân Thận-hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật
Nguyệt tổng trấn hồ Động-đ́nh. Mă Viện, Lưu Long bị bạịVua Quang Vũ truyền
Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bạị Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô
cùng, một tay nhổ núi Nga-mi, một tay nhổ núi Thái-sơn, đánh quân Hán
chết, xác lấp sông Trường-giang, hồ Động-đ́nh, oán khí bốc lên tới trờị
Ngọc-hoàng Thượng-đế sai thiên-binh, thiên-tướng trợ chiến cũng bị bạị
Ngài phải sai thần Du Liệt sang Tây phương cầu cứu Phật Như Laị Đức Phật
sai mười tám vị Kim-cương, ba ngàn La-hán trợ chiến cũng bị bạị Cuối cùng
ngài truyền Quán Thế Âm bồ tát tham chiến. Nữ vương Phật-Nguyệt với
Quan-Âm đấu phép ba ngày ba đêm, bất phân thắng bạị Sau Quán Thế Âm thuyết
pháp nữ vương Phật Nguyệt giác ngộ, bỏ đi tu.
Ta nhân ngày lành, viết lại chuyện xưa, xin dâng đôi câu đối :
Tích trù Động-đ́nh uy trấn Hán,
Phương lưu thanh sử lực phù Trưng
(Một trận Động-đ́nh uy trấn Hán
Tên c̣n trong sử sức phù Trưng).
Như thế tôi đă t́m ra được : Đạo thờ vua Bà tại năm tỉnh Nam Trung-quốc là
di tích của ḷng tôn kính thờ anh hùng dân tộc của tộc Việt trên lănh thổ
cũ của người Việt c̣n sót lạị Vua Bà mà người Trung-hoa thờ như một thứ
tôn giáo, chính là vua Trưng.
Kết luận :
« Khi đă có nữ tướng Phật Nguyệt đánh trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh. Mà có
trận hồ Động-đ́nh th́ lănh thổ thời Lĩnh-Nam, phía Bắc quả tới phía Nam
sông Trường-giang ».
6.2. Quả có trận Trường-sa, hồ Động-đ́nh năm 39 sau Tây-lịch,
Huyền sử nói rằng : Khi bà Trưng Nhị cùng các tướng Trần Năng, Phật
Nguyệt, Trần Thiếu-Lan, Lại Thế-Cường đánh Trường-sa vào đầu năm Kỷ-Hợi
(39 sau Tây-lịch). Trong trận đánh này, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tử trận,
được mai táng ở ghềnh sông Thẩm-giang (8). Thẩm-giang chính là đọan sông
ngắn ở Bắc, tiếp nối với hồ Động-đ́nh.
Một cuốn phổ khác, chép vào thời Nguyễn nói rằng : Các sứ thần triều Lư,
Trần, Lê khi qua đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần
Thiếu-Lan. Năm 1980 tôi đến đây t́m hiểụ Không khó nhọc tôi t́m ra trong
cuốn địa phương chí, do sở du lịch Trường-sa cấp, một đọan chép :
« Miếu thờ liệt nữ Trần Thiếu-Lan ở đầu sông Tương. Hồi cách mạng văn hóa
bị phá hủỵ Tượng đồng bị nấu rạ Vệ binh đỏ phá luôn cả bia đá ».
Tôi t́m tới nơi, th́ miếu chỉ c̣n lại cái nền bằng đá ong, mộ vẫn c̣n.(9).
Kết luận :
« Thời Lĩnh-Nam qủa có việc Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Trần Thiếu-Lan,
Lại Thế-Cường đánh trận Trường-sạ Trong trận, nữ tướng Trần Thiếu-Lan tuẫn
quốc. Khi có trận đánh này, th́ lănh địa thời Lĩnh-Nam quả gồm có hồ
Trường-sa , hồ Động-đ́nh ».
6.3. Quả có trận Bồ-lăng, năm 42 sau Tây-lịch,
Huyền sử kể rằng: ba tướng họ Đào là Chiêu-Hiển, Đô Thống và Tam-Lang được
vua Trưng trao cho trấn tại
Tượng-quận (Vân-nam) . Nhưng v́ quân ít, thế cô, ba ông không chống lại
với quân Hán, do Vương Bá chỉ huy. Ba ông đă tự tận. Hiện tại đền thờ của
ba ông có đôi câu đối:
Tượng-quận dương uy nhiêu tướng lược,
Bồ-lăng tuẫn tiết tận thần trung.
Nghĩa là: trận Tượng-quận dương oai, rơ tài tướng giỏị Bến Bồ-lăng tuẫn
tiết, tỏ ra thần trung.
Hầu hết các sử gia đều cho rằng: Bồ-lăng tức là bến Bồ-đề, ngoại ô
Thăng-long. Vả lănh thổ Việt-Nam hồi đó đâu có rộng vậỷ
Tôi không tin lư luận nàỵ Tôi quyết có trận Tượng-quận. V́ saỏ V́ ba ngài
chiến đấu tại Tượng-quận, khi Tượng-quận thất thủ, tuẫn tiết th́ tuẫn tiết
tại chỗ, có đâu rút từ Tượng-quận về tới Long-biên (Hà-nội) trải mấy ngh́n
cây số, rồi mới tự tử? Vả cái tên bến Bồ-đề mới xuất hiện vào năm
1427-1428 khi vua Lê Thái-tổ vây Đông-đô (Thăng-long).
V́ vậy, trong dịp hè năm 1982, tôi cầm đầu phái đoàn CMFC sang Vân-Nam,
Trung-quốc, để nghiên cứu về một giống trà có khả năng trị tuyệt chứng
Cholestérol, Triglycéridẹ.. Lợi dụng dịp nầy, tôi quyết t́m cho ra sự
thực.
Ghi chú của Tăng Hồng Minh
Phái đoàn gồm:
Trưởng-đoàn: Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ,
Thành viên: Bác-sĩ Pascale Vareilla (Biologie), Claude Tarentino
(Anatomie), Antonio Fernandes (Cardiologiẹ)
Các dược sĩ: Valérie Cordinante, Jean Marie Limager. Kỹ sư canh nông
Antoine Reynault, và một diễn viên điện ảnh Hương-cảng.
Trong chương tŕnh phái đoàn chỉ công tác tại các vùng thuộc Vân-Nam như:
Chiêu-dương, Đông-xuyên, Khâu-bắc, Nguyên-dương, Bảo-sơn, Điền-Bắc,
Côn-minh; rồi dùng phi cơ từ Côn-minh trở về Paris. Nhưng khi tới
Đông-xuyên, giáo sư Trần Đại-Sỹ t́m ra dấu vết cuộc chiến giữa quân vua
Trưng và quân Hán, mà không rơ ràng cho lắm. Ông dẫn phái đoàn trở lại
Côn-minh, sau khi thảo luận với giáo-sư sử học Đoàn Dương của đại học
Văn-sử, được giáo sư Đoàn cho biết: "Trong truyền thuyết dân gian nói rằng
hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại
Bồ-lăng.
Nay Bồ-lăng nằm trên lănh thổ Tứ-xuyên, chỗ ngă ba sông Trường-giang và
Ô-giang." Thế là giáo sư Trần Đại-Sỹ đề nghị phái đoàn dùng đường thủy về
Hồ-Nam, sau đó đáp phi cơ từ Hồ-Nam ra Hương-cảng, rồi đi Paris.
Trên đường từ Độ-khẩu (Vân-Nam) đi Hồ-Nam, sẽ quạ.. Bồ-lăng. Được đi chơi,
dĩ nhiên phái đoàn mừng không sao tả siết!!!. Dĩ nhiên túi tiền của CMFC
vơi đi dăm ba chục ngh́n đollars nữa để chi cho phái đoàn.
Theo tôi, với số tiền ấy, mà kết quả t́m được Tây-biên của Lĩnh-Nam, cũng
rẻ chán. Thế nhưng khi trở về Paris, vụ này đồn đại ra ngoài, một Bác-sĩ
Việt-Nam tên Trần L.(từng là bộ trưởng Y-tế hồi VNCH), viết thư cho ông bộ
trưởng Văn-hóa Pháp, tố cáo Giáo-sư Trần Đại-Sỹ lợi dụng chức vụ trưởng
đoàn công tác y khoa, để t́m di tích cổ sử viết sách. Ông Bộ-trưởng trả
lời đại ư:
"Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ không dùng một xu (centimes) nào của chính phủ Pháp,
nên bộ không có thẩm quyền."
Cuối thư ông Bộ-trưởng hạ một câu:
" Ví dù Bác-sĩ Trần Đại-Sỹ có lợi dụng chức vụ, có dùng tiền của bộ
Văn-hóa, mà t́m tư liệu làm giầu cho thư viện Pháp th́ là điều đáng khuyến
khích. Hơn nữa tài liệu đó làm lợi cho Việt-Nam, Ông (Trần L.) phải vui
mừng mới phải chứ."
Tăng Hồng Minh tôi là người Việt gốc Hoa, tôi xin tiết lộ một chi tiết
này, để các vị độc giả Việt-Nam suy nghĩ!!!
Thế là phái đoàn dùng tầu đi từ Độ-khẩu theo Kim-sa-giang (Trường-giang)
qua Nam-khê, Giang-tân, Trùng-khánh, tới ngă ba sông Ô-giang, Trường-giang
th́ gặp bến Bồ-lăng. Tại đây tôi được sở du-lịch chỉ cho xem miếu thờ ba
vị thần, tướng của vua Bà. Nhưng họ không biết tên vua Bà cùng ba vị
tướng. Cả vùng này có đạo thờ vua Bà (lên đồng). Hồi trước 1949 rất thịnh.
Sau cách mạng Văn-hóa (1965-1967) miếu được cấp cho dân chúng ở. Hỏi hướng
dẫn viên du lịch về vua Bà, họ chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống
tham quan thời Hán. Tôi đến thăm miếụ Miếu khá lớn, chủ hộ ở trong miếu
trước đây là cán bộ Văn-hóa Bồ-lăng.
Trước miếu có đôi câu đối. Ông chủ hộ khoe rằng để bảo tồn di tích văn
hóa, hằng năm ông phải mua sơn tô chữ cho khỏi mất:
Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Đoạn trường, trục Định, tiết ?can vân.
Nghĩa là: Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâụ Đuổi được
Tô Định, nhưng đau ḷng thay, phải tự tận, khí tiết ngút từng mây.
Tôi xin vào trong miếu xem, th́ bệ thờ nay là nơi vợ chồng ông nằm ngủ.
Hai bên bệ cũng có đôi câu đối.
Giang-thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ-lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là: Trên sông Trường-giang, ba vị anh hùng pḥ tá nữ chúạ Tại bến
Bồ-lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Ông chủ hộ th́ cho rằng bách tộc là toàn dân Trung-quốc. Tôi giảng cho ông
nghe về sự tích trăm con của Quốc-tổ, Quốc-mẫụ V́ vậy chữ bách tộc đây để
chỉ người Việt. Ông thích lắm.
Kết luận,
Như vậy th́ quả có trận Tượng-quận. Mà có trận Tượng-quận th́ biên giới
Lĩnh-Nam hồi ấy giáp Ba-Thục, tức Tứ-xuyên ngày nay.
7.Nghiên cứu những khai quật
Vào những năm 1964-1965, giáo sư luật khoa Vũ Văn Mẫu đang sọan thảo tài
liệu về cổ luật Việt-Nam. Người giúp giáo sư Mẫu đọc sách cổ là
Hoàng-triều tiến-sĩ Nguyễn Sỹ-Giác. Cụ Giác tuy thông kinh điển, thư tịch
cổ, nhưng lại không biết ngoại ngữ, cùng phương pháp phân tích, tổng hợp
Tây-phương. Cụ giới thiệu tôi với giáo sư Mẫụ Tôi đă giúp giáo sư Mẫu đọc,
soạn các thư tịch liên quan đến cổ luật. Chính v́ vậy tập tài liệu «
Cổ-luật Việt Nam và tư pháp sử » có chương mở đầu «Liên hệ giữa nguồn gốc
dân tộc và Cổ luật Việt-Nam » (10).
Bấy giờ tôi c̣n trẻ, không đủ tài liệu khai quật của Trung-Quốc, của Bắc
Việt-Nam, và bấy giờ những lư thuyết về ADN chưa có hệ thống, nên có nhiều
chi tiết sai lầm. Hôm nay đây, tôi xin lỗi anh linh Hoàng-triều tiến-sĩ
Nguyễn Sỹ-Giác, anh linh giáo sư Vũ Văn-Mẫụ Tôi xin lỗi các vị đồng nghiệp
hiện diện, xin lỗi các sinh-viên về những sai lầm đó.
Triều đại Hồng-Bàng thành lập từ năm 2879 năm trước Tây-lịch, tương đương
với thời đại đồ đá mài (le néolithique), tức cuối thời đại văn-hóa Bắc-sơn
(11). Trong những khai quật về thời đại này tại Bắc-Việt, Đông Vân-Nam,
Quảng-Đông, Hồ-Nam, người ta đều t́m được những chiếc ŕu thiết diện h́nh
trái soan, trong khi tại Nhật, Bắc Trường-giang chỉ t́m được lọai ŕu
thiết diện h́nh chữ nhựt, chứng tỏ vào thời đó có một thứ văn hóa tộc Việt
giống nhau .
Sang thời đại văn-hóa Đông-sơn (12) hay đồ đồng (âge de bronze). Trong
thời gian này đă t́m được trống đồng Đông-sơn trên bờ sông Mă (Thanh hóa).
Sự thật trống đồng đă t́m thấy ở toàn bộ các tỉnh Nam Trường-giang như
Hồ-nam, Quư-châu,Vân-nam, Quảng-đông, Quảng-tây, Nam-dương, Lào (13) , Bắc
và Trung-Việt. Nhưng ở Nam-dương, Lào rất ít. Nhiều nhất ở Bắc-Việt, rồi
tới Vân-nam, Lưỡng-quảng. Phân tích thành phần gần như giống nhau.
Đồng 53%,
Thíếc 15-16%,
Ch́ 17-19%,
Sắt 4%.
Một ít vàng bạc.
Khảo về y-phục, mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ, qua các thời đại cho
đến hết thế kỷ thứ nhất sau Tây-lịch, tôi thấy trong các vùng Nam Trường
giang cho đến Trung Bắc-Việt, cùng Lào, Thái đều giống nhaụ Bây giờ dùng
hệ thống ADN kiểm những bộ xương, kiểm máu người sống, chúng tôi đă biện
biệt được sự khác biệt vào thời Việt, Hoa lập quốc.
Kết luận,
« Tộc Việt quả có lĩnh địa Bắc tới hồ Động-đ́nh, Tây tới Tứ-xuyên như cổ
sử nói ».
8.Tổng kết,
Sáu vấn đề tôi nêu ra ở trên, rồi đi t́m, tất cả đều c̣n đầy đủ di tích.
Như vậy: Biên giới cổ của nước Việt-Nam, với các triều đại Hồng-bàng,
Âu-lạc, Lĩnh-Nam phía Bắc quả tới hồ Động-đ́nh, phía Tây giáp Tứ-xuyên.
V.KẾT LUẬN:
Thưa Quư-vị
Quư-vị đă cùng tôi đi vào những chi tiết từ huyền thoại, huyền sử, cổ sử,
cùng triết học, cho tới tin học, y học để t́m về nguồn gốc dân tộc
Việt-Nam, về biên giới cổ của tộc Việt.
Trong chính sử Trung-quốc, Việt-Nam đều ghi rơ ràng nguồn gốc tộc Việt,
nhưng cái nguồn gốc đó căn cứ vào cổ thư của người Trung-hoa, nên hoàn
toàn sai lạc. Bởi cổ thư cho rằng người Trung-hoa tự sinh ra, rằng người
Việt chẳng qua do những người Trung-hoa di chuyển xuống lưu ngụ. Sự thực
nhờ hệ thống ADN, chúng ta biết rằng chính những người ở châu Phi đến Đông
Nam-á trước, rồi di chuyển lên Hoa-Nam. Tại Hoa-Nam giống người này lại
hợp với giống người từ châu Phi sang châu Âu, rồi từ châu Âu vào Trung-á,
hợp với người ở Hoa-Nam mà thành tộc Hán.
Nhưng ngược lại, do cổ thư Trung, Việt, hay do ADN, chúng ta cũng biết rất
rơ biên cương nước Việt thời mới lập quốc.
Hồi thơ ấu, tôi sống bên cạnh những nhà Nho, chỉ đọc sách chữ Hán của
người Hoa, người Việt viết. Mà những sách này đều chép rằng tộc Việt gồm
có trăm họ khác nhau, mang tên Bách-Việt. Những tên Âu-Việt, Lạc-Việt,
Đông-Việt, Nam-Việt, Việt-Thường đều thuộc Bách-Việt cả. Cái tên trăm họ
hay trăm Việt (Bách-Việt) phát xuất từ huyền thọai vua Lạc-Long sinh ra
trăm con. Trăm có nghĩa là toàn thể, tất cả, chứ không hoàn toàn là con số
như ta tưởng ngày nay (14).
Các vị cổ học, học cổ sử, rồi coi lĩnh địa tộc Việt bao gồm phía Nam sông
Trường-giang lấy mốc là hồ Động-đ́nh với sông Tương, núi Ngũ-lĩnh là đương
nhiên. Chính hồi nhỏ, khi học tại trường Pháp, vào thời kỳ 13-14 tuổi, tôi
chỉ được học vài trang ngắn ngủi về nguồn gốc tộc Việt, trong khi đó gia
đ́nh cho tôi đọc mấy bộ sử dài hàng mấy chục ngh́n trang của Hoa, của Việt
(Nếu dịch sang chữ Việt số trang gấp bốn, sang Pháp, Anh văn số trang gấp
năm sáu). Chính tôi cũng nh́n nguồn gốc tộc Việt, lĩnh thổ tộc Việt tương
tự như các nhà cổ học. Nay tôi mới chứng minh được.
Phải chờ cho đến khi tôi ra trường (1964). Bấy giờ giáo sư Vũ Văn-Mẫu
thạc-sĩ luật khoa nhờ Hoàng triều tiến-sỹ Nguyễn Sỹ-Giác sưu tầm tài liệu
cổ luật. Cụ Giác học theo lối cổ, không biết những phương pháp quy nạp,
tổng hợp nên giới thiệu giáo sư Mẫu với tôị Ngay từ lần đầu gặp nhau, mà
một già, một trẻ đă có hai cái nh́n khác biệt. Giáo sư Mẫu trên 50 tuổi mà
lại có một cái nh́n rất trẻ, tôi mới có 25 tuổi lại có cái nh́n rất già về
nguồn gốc tộc Việt. Qua cuộc trao đổi sơ khởi, bấy giờ tôi mới biết có rất
nhiều truyền thuyết nói về nguồn gốc dân tộc Việt, mà các tác giả thiếu
cái học sâu xa về cổ học Hoa-Việt đưa rạ V́ vậy tôi đă sưu tầm tất cả
những ǵ trong thư tịch cổ, giúp giáo sư Mẫu đem viết thành tài liệu giảng
dạỵ Nhưng sự sưu tầm đó không đầy đủ, v́ chỉ căn cứ trên thư tịch cổ. Nay
tôi mới biết có quá nhiều sai lầm, tôi xin lỗi các đồng nghiệp hiện diện,
xin lỗi Quư-vị.
Hồi bấy giờ tôi sống ở Sài-g̣n, thuộc Việt-Nam cộng-ḥa đang là nước chống
Cộng, nên tôi không thể sang Trung-Quốc, cũng như về Bắc t́m kiếm thêm tài
liệụ Phải chờ đến năm 1976 làm việc cho CMFC, hàng năm dẫn các đồng nghiệp
sang Trung-Quốc nghiên cứu, trao đổi y học, tôi mới có dịp t́m kiếm lại di
tích xưa trong thư viện, trong bảo tàng viện, trên bia đá cùng miếu mạo,
đền chùa và nhất là đến tại chỗ nghiên cứụ Gần đây nhờ các đồng nghiệp
dùng hệ thống ADN, tôi mới biện biệt được nguồn gốc tộc Việt, biên cương
thời lập quốc của tộc Việt.
Hôm nay tôi xin kết luận với các bạn rằng :
-Người Trung-hoa không phải là con trời như những văn gia cổ của họ viết,
dù ngày nay họ c̣n nghĩ như vậỵ
-Họ cũng không tự sinh ra, rồi tản đi tứ phương.
-Không hề có việc người Trung-hoa trốn lạnh hay v́ lư do chính trị di cư
xuống vùng đất hoang, tạo thành nước Việt. Trong lịch sử quả có một số
người Trung-hoa di cư sang Việt-Nam sau những biến cố chính trị. Như ngày
nay người Việt di cư đi sống khắp thế giớị
-Lại càng không có việc người Việt gốc từ ḍng giống Mă-lai như một vài
người ngố ngếch đưa ra.
-Theo sự nghiên cứu bắng hệ thống ADN, từ cổ, giống người Trung-hoa, do
giống người từ Đông Nam-á di lên. Những người Đông Nam-á lại đến từ châu
Phi qua ngả Nam-á vào thời gian hơn 20.000 năm trước.
-Người châu Phi đến Bắc Trung-hoa do ngả Âu-châu rồi vào Trung-á, khoảng
15.000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoạ
-Tộc Việt sống rải rác từ phía Nam sông Trường-giang, xuống măi vịnh
Thái-lan.
-Biên giới nước Việt thủa lập quốc gồm từ Nam sông Trường giang đến vịnh
Thái-lan, Đông tới biển. Tây tới Tứ-xuyên của Trung-quốc ngày nay.
Đến đây tôi xin phép các vị giáo sư, quư khách, các sinh viên cho tôi
ngừng lờị Xin hẹn lại quư vị đến tháng 11-92 tôi sẽ tŕnh bày trước qúy vị
về nguồn gốc triết Việt.
|