LỜI GIỚI THIỆU
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà tiếng gọi cho tự do và dân chủ
đang vang lên trên khắp địa cầu. Đông Âu vừa vứt bỏ các chính phủ chuyên
chế tồn tại gần nửa thế kỷ và các nước cộng ḥa trong khối Xô-viết cũ cũng
đang tranh đấu để thay thế chế độ cộng sản tồn tại gần 75 năm bằng một
trật tự dân chủ mới- cái mà trước đây có thể họ chưa bao giờ trải qua. Tuy
nhiên, bi kịch xảy ra xung quanh các thay đổi đáng kinh ngạc trong hệ
thống chính trị tại châu Âu đang phủ một bóng đen lên vi! ễn cảnh tươi
sáng mà dân chủ hứa sẽ đem lại - chính sự hứa hẹn này đang liên kết và huy
động sức mạnh của mọi người trên khắp thế giới. Nam Mỹ và Bắc Mỹ hiện nay
thực sự đang là một bán cầu của dân chủ; châu Phi đang trải qua một kỷ
nguyên vô tiền của cải cách dân chủ và các thể chế dân chủ mới và năng động
hiện đang bén rễ tại châu Á.
Hiện tượng toàn cầu này đang làm cho những người hoài nghi phải suy nghĩ
lại, những người hoài nghi cho rằng dân chủ tự do hiện đại chỉ là một sản
phẩm nhân tạo độc nh̐! 5;t của phương Tây và không thể tái tạo th ành công
được ở các nền văn hóa không phải phương Tây. Trong một thế giới mà dân
chủ đă được thực thi ở nhiều dân tộc khác nhau như Nhật bản, Italia và
Vênezuêla, các định chế dân chủ có thể lên tiếng một cách chính thức cho
các khát vọng mang tính nhân loại toàn cầu về tự do và tự quản.
Làn sóng dâng trào mạnh mẽ v́ tự do trong suốt thập kỷ qua đă đảm bảo cho
sự thành công tối hậu của nó. Chester E. Finn, Jr.- giáo sư về chính sách
giáo dục và cộng đồng thuộc trường đại học Vanderbilt và là giám đốc của
Tổ chức giáo dục xuất sắc ( Educational Excellence Net! work), đă phát
biểu trước một nhóm các nhà giáo dục và các thành viên chính phủ tại
Managua, Nicaragua:" Con người tự nhiên đă ưa thích tự do hơn áp bức, giả
dụ điều đó có thể thực sự được mang lại, th́ điều đó không có nghĩa là các
hệ thống chính trị dân chủ có thể được xây dựng nên và được duy tŕ bằng
sự mong đợi. Ngược lại, các ư tưởng dân chủ luôn tồn tại nhưng việc thực
hiện dân chủ lại lệ thuộc vào rất nhiều yếu tố."
Ngày nay, các giá trị dân chủ có thể đang được xem lại, nhưng được xem lại
theo suốt quá tr! ́nh lịch sử lâu dài của loài người, tO 15; cuộc cách mạng
Pháp cuối thế kỷ 18 cho tới sự xuất hiện của các chế độ một đảng vào giữa
thế kỷ 20, phần lớn các thể chế dân chủ c̣n ít và tồn tại không lâu. Thực
tế này không làm cho chúng ta bi quan hay thất vọng, mà ngược lại đó là sự
thách thức chúng ta phải vượt qua. Trong khi các khát vọng tự do là điều
tự nhiên bẩm sinh của con người th́ việc thực hiện dân chủ lại đ̣i hỏi phải
được giáo dục và huấn luyện. Liệu bản lề của lịch sử có c̣n tiếp tục mở
các cánh cửa của tự do nữa không? điều này phụ thuộc vào s̘! 1; quyết tâm
cống hiến và sự khôn ngoan tập thể của chính bản thân người dân chứ không
dựa trên bất kỳ qui luật nào của lịch sử và chắc chắn cũng không dựa trên
ḷng nhân từ được mong mỏi từ các nhà lănh đạo độc đoán.
Khác với một số nhận thức, một xă hội dân chủ lành mạnh không chỉ đơn giản
là một đấu trường cho các cá nhân theo đuổi các mục đích của cá nhân họ.
Dân chủ sẽ chỉ được thực hiện khi dân chủ là mong muốn của các công dân có
quyết tâm sử dụng quyền tự do mà họ vất vả mới giành được để tham gia! vào
đời sống của xă hội - góp tiến g nói của họ vào các tranh luận tập thể,
bầu ra các vị đại diện có trách nhiệm đối với các hành động của họ và chấp
nhận đ̣i hỏi sự dung ḥa và thỏa hiệp trong đời sống công cộng. Các công
dân của nền dân chủ được tận hưởng quyền tự do cá nhân, nhưng họ cũng phải
chia sẻ trách nhiệm cùng mọi người khác xây dựng một tương lai trong đó
các giá trị cơ bản của tự do và tự quản vẫn tiếp tục được theo đuổi.
ĐỊNH NGHĨA DÂN CHỦ
CHÍNH PHỦ CỦA DÂN
Dân chủ có thể là một từ quen thuộc với nhiều người, nhưng nó là một
khái niệm vẫn bị hiểu sai và sử dụng sai khi các chế độ chuyên chính và
các chính thể quân sự độc tài lợi dụng để kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng
bằng các nhăn hiệu dân chủ giả hiệu cưỡng ép.Tuy thế, sức mạnh của tư tưởng
dân chủ cũng đă tạo nên những biểu hiện sâu sắc nhất và nhanh chóng nhất
trong lịch sử của ư chí và trí tuệ con người: từ Pericle(1) thời Aten cổ
đại tới Vaclav Havel(2) ở cộng ḥa Séc hiện đại, từ Tuyên ngôn &! #273;ộc
lập của Thomas Jefferson năm 1776 tới các bài diễn văn của Andrei
Sakharov(3) năm 1989.
Theo định nghĩa trong từ điển, dân chủ "là chính phủ được thành lập bởi
nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực
hiện bởi nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử
tự do". Theo Abrham Lincoln, dân chủ là một chính phủ "của dân, do dân và
v́ dân".
Tự do và dân chủ thường hay được sử dụng thay lẫn nhau nhưng hai từ này
không đồng nghĩa với nhau. Dân chủ thực tế là một tập hợp những ! tư tưởng
và nguyên tắc về tự do và c ũng bao gồm một tập hợp các thông lệ và các
thủ tục đă được đúc kết lại từ quá tŕnh lâu dài, thường không bằng phẳng,
của lịch sử. Một cách ngắn gọn, dân chủ là sự thể chế hóa sự tự do. Trên
cơ sở này chúng ta có thể định rơ được các nguyên tắc cơ bản đă được thử
thách qua thời gian đối với một chính phủ lập hiến, vấn đề nhân quyền, vấn
đề b́nh đẳng trước pháp luật mà bất cứ một xă hội nào được gọi là dân chủ
theo đúng nghĩa của nó cũng cần phải có.
Các thể chế dân chủ đượ! ;c phân ra hai loại cơ bản: Trực tiếp và Đại diện.
Trong nền dân chủ trực tiếp, mọi công dân, không cần thông qua trung gian
là các đại diện được bầu hay chỉ định, có thể tham gia vào quá tŕnh tạo
nên các quyết định cho các vấn đề xă hội/công cộng. Một hệ thống như thế
rơ ràng chỉ có thể thực hiện được với một số ít người- ví dụ:trong một tổ
chức cộng đồng hay một hội đồng bộ lạc nào đó hay một đơn vị địa phương
của một liên đoàn lao động khi mà các thành viên có thể gặp gỡ nhau trong
một pḥng họp đ&! #7875; bàn bạc, thảo luận các vấn đề ; và đi tới quyết định
bằng sự đồng thuận hoặc theo nguyên tắc biểu quyết theo đa số. Những người
Aten cổ đại, là thể chế dân chủ đầu tiên, đă thực hiện kiểu dân chủ trực
tiếp với một hội đồng bao gồm số lượng thành viên chỉ tới 5000 đến 6000 -
có thể đây là số lượng tối đa để có thể tập hợp được ở một địa điểm và
thực hiện sự dân chủ trực tiếp.
Xă hội hiện đại, với kích thước và tính phức tạp rất lớn của nó, ít có cơ
hội cho loại dân chủ trực tiếp. N! gay như ở vùng đông bắc Hoa kỳ, cuộc
họp thị trấn New England đă thành một truyền thống thiêng liêng, th́ hiện
nay các cộng đồng đă phát triển lớn tới mức không thể tập hợp được tất cả
các cư dân ở một nơi để tiến hành bầu, biểu quyết trực tiếp cho các vấn đề
có tác động tới cuộc sống của chính họ.
Ngày nay h́nh thức dân chủ phổ biến nhất, dù là một thị trấn 50.000 người
hay một dân tộc trên 50 triệu người, là h́nh thức dân chủ đại diện: trong
đó các công dân bầu ra các công chức là những người đưa ra các quyết ! định
chính trị, xây dựng luật và quả ;n lư các chương tŕnh v́ lợi ích công
cộng. Nhân danh nhân dân, các công chức đó phải cân nhắc kỹ càng các vấn
đề công cộng phức tạp theo một quá tŕnh có tính hệ thống và tính trí tuệ,
quá tŕnh này đ̣i hỏi sự đầu tư lớn về thời gian, sức lực và vật chất mà
thường không thể thực hiện được đối với một số đông các công dân đơn lẻ.
Có nhiều cách rất khác nhau để bầu ra các vị công chức. Ví dụ, ở mức độ
quốc gia, các nhà lập pháp có thể được chọn lựa từ các bang mà mỗi bang
bầu một đại diện ứng cử duy nhất. Theo một cách khá! c gọi là hệ thống đại
diện theo tỷ lệ, mỗi đảng chính trị được đại diện trong cơ quan lập pháp
theo tỷ lệ đạt được trong tổng bầu cử quốc gia. Bầu cử tại tỉnh hay địa phương
cũng có thể theo mẫu như mức độ quốc gia hoặc bằng cách thân t́nh hơn
thông qua sự đồng thuận của các nhóm thay cho bầu cử. Dù được bầu theo
cách nào th́ các vị công chức trong nền dân chủ đại diện cũng phải hoạt động
và làm việc nhân danh nhân dân và luôn phải chịu trách nhiệm cho các hành
động của họ trước nhân dân.
NGUYÊN TẮC ĐA SỐ VÀ CÁC QUYỀN THIỂU SỐ
Các thể chế dân chủ là các hệ thống trong đó mọi công dân được tự do
đưa ra các quyết định chính trị theo nguyên tắc đa số. Nhưng nguyên tắc đa
số cũng chưa phải là dân chủ: ví dụ, không ai có thể gọi một hệ thống nào
đó là công bằng hoặc b́nh đẳng nếu hệ thống đó chấp nhận cho 51% dân số đàn
áp 49% dân số c̣n lại với nhân danh đa số cả. Trong một xă hội dân chủ,
nguyên tắc đa số phải được ràng buộc với sự đảm bảo cho các quyền con người
của cá nhân, các quyền này, đ! 893;i lại, lại đóng vai tṛ bảo vệ quyền
lợi cho bên thiểu số dù đó là dân tộc ít người, nhóm tôn giáo hay chính
trị hoặc chỉ đơn giản là những người thua cuộc trong tranh luận về một vấn
đề lập pháp nào đó. Các quyền của thiểu số không phụ thuộc vào ư nguyện
của bên đa số và cũng không thể bị loại bỏ bởi biểu quyết đa số. Các quyền
lợi của thiểu số được bảo vệ bởi v́ các luật dân chủ và các định chế của
nó bảo vệ quyền lợi cho mọi công dân.
Diane Ravitch, nhà nghiên cứu, tác giả và là cựu trợ lư cho bộ trưởng giá!
o dục Hoa kỳ đă viết trong một bản tham luận cho hội thảo giáo dục tại Ba
lan:" khi một thể chế dân chủ kiểu đại diện hoạt động đúng theo hiến pháp
mà hiến pháp đó có qui định giới hạn cho quyền lực của chính phủ đồng thời
đảm bảo các quyền cơ bản cho mọi công dân, th́ chính phủ đó gọi là nền dân
chủ lập hiến. Trong một xă hội như thế, các nguyên tắc đa số và các quyền
thiểu số được bảo vệ bởi luật và thông qua sự thể chế hóa các điều luật".
Đây chính là các thành phần cơ bản cho mọi thể chế dân chủ hiện đại cho dù
nó có thể thay đổi theo hoàn ! cảnh lịch sử, văn hóa hay kinh tế. Mặc dù
có nhiều sự khác biệt rất lớn giữa các dân tộc và xă hội, các yếu tố cơ
bản như chính phủ lập hiến, nguyên tắc đa số kết hợp với quyền thiểu số,
quyền cá nhân và nguyên tắc tuân theo luật đều có thể t́m thấy ở Canađa và
Côxtarica, Pháp và Bốtsoana, Nhật bản và Ấn độ.
XĂ HỘI DÂN CHỦ
Dân chủ không chỉ là một tập hợp các điều luật hợp hiến và các thủ tục
để xác định cách thức hoạt động cho chính phủ. Trong một thể chế dân chủ,
chính phủ chỉ là một thành phần cùng tồn tại trong một kết cấu xă hội bao
gồm rất nhiều các định chế khác nhau, các đảng chính trị, các tổ chức và
các hiệp hội. Tính chất đa dạng này được gọi là đa nguyên và thể chế dân
chủ đó qui định sự tồn tại, tính pháp lư hay quyền lực của cáùc tổ chức và
các định chế khác trong một xă hội dân chủ không phụ thu! 897;c vào chính
phủ. Trong một xă hội dân chủ luôn có hàng ngàn các tổ chức tư nhân hoạt động
ở mức độ địa phương hay quốc gia. Rất nhiều trong số tổ chức đó đóng vai
tṛ trung gian giữa các cá nhân và các định chế của chính phủ hay các tổ
chức xă hội phức tạp khác mà họ cũng là một thành phần, hoặc thực hiện các
vai tṛ, nhiệm vụ mà chính phủ không được giao và tạo cơ hội cho các cá
nhân thực hiện quyền và trách nhiệm của ḿnh với tư cách là công dân của
một thể chế dân chủ.
Các nhóm này thể hiện quyền lợi cho các thành viên của họ theo rất nhiều
cách: ! ủng hộ các ứng cử viên vào các vị trí tr ong các cơ quan công
quyền, tranh luận các vấn đề, và cố gắng tạo ảnh hưởng lên các quyết định
chính trị. Chỉ thông qua các nhóm như thế, các cá nhân mới có được con đường
để tham gia một cách có ư nghĩa vào cả chính phủ và các cộng đồng của
chính họ. Có rất nhiều ví dụ cho các nhóm như thế: các tổ chức nhân đạo và
nhà thờ, các nhóm môi trường và thân hữu, các tổ chức kinh doanh và các
liên đoàn lao động.
Trong một xă hội độc đoán, các tổ chức như thế bị kiểm soát, phải có giấy
phép hoạt động và bị theo rơi hoặc phải chịu trách nhiệm đN! 89;i với
chính phủ. Trong một thể chế dân chủ, quyền lực của chính phủ được xác định
rơ ràng và bị giới hạn chặt chẽ bởi luật. Và kết quả là các tổ chức tư
nhân như thế được tự do, không bị chính phủ kiểm soát; mà ngược lại, rất
nhiều các tổ chức đó vận động chính phủ và t́m cách làm nâng cao trách
nhiệm của chính phủ đối với các hành động của chính phủ. Một số tổ chức
khác quan tâm tới các vấn đề nghệ thuật, thực hiện đức tin tôn giáo,
nghiên cứu học thuật hoặc các vấn đề khác có thể có tiếp xúc ít hay hoàn
toà! n không với chính phủ.
Trong một vương quốc riêng tư sôi nổi của thể chế dân chủ như thế, các
công dân đều có mọi khả năng tự do và trách nhiệm đối với vấn đề tự quản
lư - không bị sức ép của bất kỳ bàn tay quyền lực nào của nhà nước.
CÁC CỘT TRỤ CỦA NỀN DÂN CHỦ
* Quyền tối cao của nhân dân.
* Chính phủ thành lập dựa trên sự nhất trí của người dân.
* Nguyên tắc đa số.
* Các quyền thiểu số.
* Đảm bảo các quyền cơ bản của con người.
* Bầu cử tự do và công bằng.
* B́nh đẳng trước pháp luật.
* Thực hiện đúng luật.
* Hiến pháp đặt ra các giới hạn quyền lực đối với chính phủ.
* Đa nguyên về chính trị, kinh tế và xă hội.
* Thúc đẩy các giá trị của dung ḥa, thực dụng, hợp tác và thỏa hiệp.
CÁC QUYỀN CON NGƯỜI
CÁC QUYỀN KHÔNG THỂ CHUYỂN NHƯỢNG
Chúng ta coi những sự thật sau đây là hiển nhiên: mọi con người được
sinh ra đều b́nh đẳng, họ đă được tạo hóa ban cho một số quyền không thể
chuyển nhượng được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền được theo
đuổi hạnh phúc. Để bảo đảm cho các quyền đó, các chính phủ được thiết lập
nên với quyền lực chính đáng dựa trên sự nhất trí của những người bị quản
lư ( người dân).
Trong những lời đáng ghi nhớ này của bản Tuyên ngôn độc lập Hoa kỳ! ,
Thomas Jefferson đă đưa ra một nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho sự thành
lập chính phủ dân chủ. Các chính phủ trong thể chế dân chủ không ban phát
các quyền tự do cơ bản mà Jefferson đă nêu, mà chính các chính phủ đó được
lập ra để bảo vệ các quyền tự do đó - các quyền mà mọi con người cá nhân
hiển nhiên có do sự tồn tại của cá nhân đó.
Theo quan điểm của các nhà triết học ánh sáng của thế kỷ 17 và 18 th́ các
quyền không thể chuyển nhượng được là các quyền tự nhiên do Tạo hóa ban
cho họ. Các quyền này không bị phá hủy khi xă hội dân sự được thiết lập và
không một xă hội hay một chính phủ nào có thể xóa bỏ hoặc " chuyển nhượng"
chúng.
Các quyền không thể chuyển nhượng bao gồm các quyền tự do ngôn luận và thể
hiện, tự do tín ngưỡng và nhận thức, tự do hội họp và quyền được bảo hộ
b́nh đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, đây chưa phải là bản liệt kê đầy đủ
các quyền mà các công dân có được trong một nền dân chủ. Các xă hội dân
chủ đồng thời thừa nhận các quyền dân sự như quyền được xét xử công bằng,
và c̣n lập nên các quyền chủ chốt mà bất kỳ chính phủ dân chủ nào cũng phải
duy tŕ. V́ các quyền này tồn tạ! ;i không phụ thuộc vào chính phủ, do đó
chúng không thể bị luật pháp băi bỏ cũng như không phụ thuộc vào ư muốn nhất
thời của đa số cử tri nào đó. Ví dụ như điều bổ xung đầu tiên của Hiến
pháp Hoa kỳ không đưa ra quyền tự do tín ngưỡng hay tự to báo chí cho dân
chúng. Điều bổ xung đó nghiêm cấm quốc hội thông qua các luật vi phạm tới
tự do ngôn lụân, tự do tín ngưỡng và quyền hội họp ôn ḥa. Nhà sử học,
Leonard Levy đă phát biểu:" Các cá nhân có thể trở nên tự do khi chính phủ
của họ không tự do ."
Các nội dung chi tiết và các thủ tục của luật pháp liên quan tới quyền con
người cần phải thay [1] đổi tùy theo xă hội, nhưng tất cả các nền dân chủ
đều được giao trọng trách trong việc xây dựng một cấu trúc xă hội lập
hiến, lập pháp để bảo đảm cho các quyền con người đó.
NGÔN LUẬN
Tự do ngôn luận và thể hiện là huyết mạch của bất kỳ xă hội dân chủ
nào. Tranh luận, bỏ phiếu, hội họp và phản kháng, thờ phụng và bảo đảm
công lư cho mọi người - tất cả những điều này có được đều dựa trên sự tự
do và thông suốt của ngôn luận và thông tin. Patrick Wilson, người Canađa,
sáng lập ra chương tŕnh truyền h́nh Đấu tranh cho Dân chủ đă quan sát
thấy:" Dân chủ là trao đổi thông tin: mọi người trao đổi với người khác về
các vấn đề chung của họ và gây dựng nên một số phận chung. Trước khi con
ngườ! i tự quản được ḿnh th́ họ cần phải được tự do để tự thể hiện ḿnh đă."
Các công dân trong thể chế dân chủ được sống với một niềm tin chắc chắn là
thông qua trao đổi cởi mở về các tư tưởng và quan điểm, chân lư và sự thật
sẽ được t́m thấy để chiến thắng sai lầm hay dối trá, đồng thời các quan điểm
hay các tư tưởng khác sẽ được nhận biết giá trị rơ hơn, các vấn đề thỏa
hiệp cũng được xác định rơ ràng và khi đó con đường dẫn tới tiến bộ, phát
triển sẽ được! khai thông. Sự cởi mở trong trao đổi càn g lớn th́ kết quả
càng tốt đẹp. Nhà b́nh luận người Mỹ F.B White đă diễn tả điều đó theo
cách sau:" Báo chí trong đất nước tự do của chúng ta được tin cậy và hữu
ích cho mọi người không phải v́ nó có đặc điểm tốt đẹp nào đó mà chính v́
sự đa dạng rất lớn của nó. Chừng nào càng có nhiều chủ thể, mỗi chủ thể đều
theo đuổi một sự thật riêng của họ th́ chúng ta - những người dân càng có
cơ hội đạt tới chân lư và mọi vấn đề luôn được sáng tỏ. Đó là sự an toàn
của số đông."
Trái hẳn với các chế đ! ộ độc tài, các chính phủ dân chủ không kiểm soát,
ra lệnh hay đánh giá nội dung của ngôn luận viết hoặc nói. Thể chế dân chủ
dựa trên các công dân có học vấn và hiểu biết mà khả năng tiếp cận của họ
đối với thông tin càng lớn th́ càng làm cho họ có nhiều khả năng tham gia
đầy đủ hơn vào các hoạt động xă hội. Sự dốt nát sinh ra sự thờ ơ. Thể chế
dân chủ đạt được thịnh vượng dựa trên sức mạnh của các công dân luôn được
tắm trong các ḍng tư tưởng, dữ kiện, ư kiến và sự xét đoán một cách tự
do. Nhưng chính phủ nên làm ǵ tron! g trường hợp các phương tiện thông ti
n hoặc một số tổ chức khác lạm dụng quyền tự do ngôn luận để tạo ra các
thông tin mà theo đa số là không đúng sự thật, phản cảm, vô trách nhiệm
hoặc đơn giản chỉ là khó chấp nhận? Nói chung, câu trả lời sẽ là: không
làm ǵ cả! đơn giản chỉ là: công việc của chính phủ không phải để xử lư
những vấn đề như thế. Nói chung, phương thuốc cho tự do ngôn luận chính là
ngôn luận tự do hơn. Điều này có vẻ nghịch lư, nhưng nhân danh ngôn luận
tự do, thể chế dân chủ đôi khi phải bảo vệ quyền của các cá nhân và các tổ
chức khi họ tự cho rằng cá! c chính sách phi dân chủ đang đàn áp ngôn luận
tự do. Các công dân của xă hội dân chủ bảo vệ các quyền này với một niềm
tin tưởng là sự tranh luận cởi mở cuối cùng sẽ dẫn tới sự thật lớn hơn và
các hành động của dân chúng sẽ khôn ngoan hơn so với khi ngôn luận hay sự
bất đồng bị bóp nghẹt.
Hơn thế nữa, lư do cần phải có ngôn luận tự do c̣n ở chỗ sự đàn áp ngôn
luận tự do mà ta thấy đối với ai đó hôm nay sẽ có khả năng là mối đe dọa
tới ngôn luận tự do của chính chúng ta vào ngày mai. Một trong những biện
luận kinh điển cho quan điể! m này là của nhà triết học người Anh John
Stuart Mill, ông đă chỉ ra từ năm 1859 trong luận văn " Bàn về Tự do" rằng
toàn dân bị tổn hại khi ngôn luận bị đàn áp. "Nếu dư luận là đúng, họ bị
tước đoạt mất cơ hội chuyển sự nhầm lẫn thành sự thật, nếu dư luận là sai,
họ mất cơ hội để có được nhận thức rơ ràng hơn và mất cơ hội nh́n nhận sự
thật sâu sắc hơn khi được đối chiếu với sai lầm."
Hệ quả của tự do ngôn luận là quyền của nhân dân được nhóm họp và đ̣i hỏi
một cách ôn ḥa chính phủ phải lắng nghe những mối bất b́nh của h̔! 5;.
Không có quyền hội họp, không có quyền được lắng nghe, khi đó tự do ngôn
luận không c̣n giá trị nữa. Do đó, tự do ngôn luận coi như là vô nghĩa nếu
không được gắn bó mật thiết với quyền hội họp, phản kháng và quyền đ̣i hỏi
thay đổi. Các chính phủ dân chủ có thể qui định một cách hợp pháp về thời
gian và địa điểm của các cuộc tập hợp và tuần hành chính trị để duy tŕ
ḥa b́nh, nhưng họ cũng không thể sử dụng quyền lực để đàn áp sự phản
kháng hoặc ngăn cản các nhóm, các tổ chức phản đối lên tiếng cho công luận
nghe rơ.
&nb! sp;
TỰ DO VÀ NIỀM TIN
Tự do tín ngưỡng, hay nói rộng hơn là tự do về nhận thức có nghĩa là
không ai bị đ̣i hỏi phải tin theo một tôn giáo hoặc một niềm tin nào ngược
lại với mong muốn của riêng họ. Hơn nữa, không ai bị trừng phạt hay ngược
đăi bằng bất kỳ h́nh thức nào chỉ v́ họ chọn lựa một tôn giáo này chứ
không phải tôn giáo khác, hoặc không chọn lựa một tôn giáo nào cả. Nhà nước
dân chủ công nhận niềm tin tôn giáo của con người là vấn đề hết sức riêng
tư. Theo một nghĩa liên quan, tự do tôn giáo có nghĩa là không một người
nào bị chính phủ ! bắt buộc phải chấp nhận một nhà thờ hoặc một niềm tin
chính thức nào cả. Trẻ em không bị bắt buộc phải theo học ở một trường tôn
giáo và không một ai bị đ̣i hỏi phải tham dự các công việc tôn giáo, cầu
nguyện hoặc tham gia vào các hoạt động tôn giáo ngược với ư nguyện của họ.
Trải qua lịch sử và truyền thống lâu đời, rất nhiều các quốc gia dân chủ
đă thiết lập một cách chính thống các nhà thờ hoặc tôn giáo với sự bảo trợ
của nhà nước. Tuy nhiên, điều đó không làm giảm nhẹ trách nhiệm của các
chính phủ dân chủ trong vai tṛ bảo vệ! tự do cho các cá nhân mà tín ngưỡng
của h̔ 5; khác với tôn giáo được khuyến khích một cách chính thống.
QUYỀN CÔNG DÂN: QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM
Các thể chế dân chủ dựa trên nguyên tắc là chính phủ tồn tại để phục
vụ nhân dân, c̣n nhân dân không tồn tại để phục vụ chính phủ. Nói cách
khác, nhân dân là các công dân của nhà nước dân chủ chứ không phải là đối
tượng của nhà nước dân chủ. Khi nhà nước bảo vệ những quyền của các công
dân, th́ đáp lại, các công dân cho nhà nước ḷng trung thành của họ. Dưới
một chế độ độc tài, nhà nước tồn tại như một thực thể tách rời xă hội, đ̣i
hỏi ḷng trung thành và sự phục vụ từ những người dân c! 911;a họ mà không
có một bổn phận tương xứng nào đối với dân chúng để đảm bảo có được sự nhất
trí của người dân đối với các hành động của họ.
Chẳng hạn, khi các công dân trong một xă hội dân chủ đi bầu cử là họ thực
thi quyền và trách nhiệm của họ để nhằm xác định ai sẽ là người thay mặt
họ thực hiện quản lư xă hội. Trái lại, trong một nhà nước độc tài, những
hoạt động bầu cử chỉ nhằm hợp pháp hóa sự lựa chọn đă định sẵn của chế độ.
Sự bầu cử trong một xă hội nh+! 2; thế không dính líu ǵ tới các quyền
cũng nh& #432; trách nhiệm của các công dân, mà chỉ là một sự bày tỏ cưỡng
bức sự ủng hộ của công chúng cho chính phủ.
Tương tự, các công dân trong một xă hội dân chủ được tận hưởng quyền tham
dự vào các tổ chức không phụ thuộc vào chính phủ và được tự do tham gia
vào các hoạt động của xă hội. Đồng thời họ cũng phải chấp nhận nghĩa vụ như
quyền tham gia đó: Tự t́m hiểu và học hỏi các vấn đề nảy sinh, biết dung
ḥa khi xử sự với những người có quan điểm trái ngược, và biết thỏa hiệp
khi cần thiết để đạt đ&#! 432;ợc thỏa thuận.
Tuy nhiên, trong một nhà nước độc tài chỉ có rất ít hoặc không có các tổ
chức hoặc các nhóm t́nh nguyện tư nhân. Các tổ chức đó, nếu có, không đóng
vai tṛ như các phương tiện cho các cá nhân để tranh luận các vấn đề hay
thực hiện các công việc riêng của họ mà họ chỉ phục vụ như một cánh tay
của nhà nước để bắt các đối tượng của nhà nước phải phục tùng.
Thực hiện nghĩa vụ quân sự cho ta một ví dụ khác nhau và trái ngược nhau
về quyền và trách nhiệm trong các xă hội dân chủ và phi dân chủ. Cả hai loại
xă hội đó đ&#! 7873;u yêu cầu các thanh niên tham gia nghĩa vụ quân sự
trong thời b́nh. Trong nhà nước độc tài, sự bắt buộc này được áp đặt một
cách đơn phương. Trong nhà nước dân chủ, thời hạn phục vụ trong quân đội
là một nhiệm vụ mà các công dân phải thực hiện thông qua luật của chính
phủ do chính các công dân đó bầu ra. Trong mọi xă hội, việc thực hiện nghĩa
vụ quân sự thời b́nh có thể không được các cá nhân hoan nghênh. Nhưng người
lính-công dân trong một xă hội dân chủ thực hiện nghĩa vụ đó với một nhận
thức là họ đang đảm nhiệm một bổn phận mà xă hội của anh ta đă tự cam kết
phải! thực hiện. Hơn thế nữa, các thành viên trong một xă hội dân chủ có
quyền thực hiện nghĩa vụ đó theo cách tập thể hoặc thay đổi bổn phận đó:
giải trừ nghĩa vụ quân sự bắt buộc và thành lập quân đội tự nguyện như Hoa
kỳ và một số nước khác đă làm; thay đổi thời hạn phục vụ trong quân đội như
ở Đức; hoặc ở Thụy sĩ, duy tŕ một đội ngũ nam giới dự bị cho nghĩa vụ
quân sự như một phần cơ bản của quyền công dân.
Quyền công dân trong những ví dụ kể trên dẫn đến một định nghĩa rộng hơn
v&! #7873; quyền và nghĩa vụ, bởi lẽ chúng là hai mặt đối lập của một vấn
đề. Việc thực hiện các quyền của một cá nhân cũng đồng thời là trách nhiệm
của họ phải bảo vệ và nâng cao các quyền đó của chính họ và của người
khác. Ngay cả các công dân trong các thể chế dân chủ đă được thiết lập
vững mạnh cũng thường hiểu sai mối quan hệ đó và thường chỉ chú ư tới lợi
ích của các quyền trong khi phớt lờ các trách nhiệm, nghĩa vụ. Như nhà
chính trị học Benjamin Barber ghi nhận:" Dân chủ thường được hiểu như là
sự thống trị của số đông và quyền càng đư! 907;c hiểu như sự sở hữu của
các cá nhân và dẫn đến như là sự đối lập tất yếu đối với dân chủ số đông.
Nhưng như thế là hiểu sai cả về quyền lẫn dân chủ."
Chúng ta nhận thấy một sự thật chắc chắn là khi các công dân thực hiện các
quyền cơ bản hay quyền không thể chuyển nhượng được - như tự do ngôn luận,
hội họp và tôn giáo th́ chính các quyền đó sẽ thiết lập nên các giới hạn
đối với mọi chính phủ được xây dựng trên cơ sở dân chủ. Do đó những quyền
cá nhân chính là bức tường thành ngăn chặn sự l&#! 7841;m dụng của chính
phủ hoặc bất kO 23; số đông chính trị nhất thời nào.
Nhưng theo một nghĩa khác, các quyền cũng như các cá nhân con người, không
hoạt động một cách cô lập. Quyền không phải là sự sở hữu riêng của cá nhân
mà nó chỉ tồn tại khi nó được thừa nhận bởi các công dân khác của xă hội.
Cử tri, như nhà triết học người Mỹ Sidney Hook đă diễn tả đó là " người
trông coi sau chót đối với sự tự do của chính họ.". Với quan điểm này th́
chính phủ dân chủ do dân bầu và có trách nhiệm trước dân không thể là kẻ
đối lập với các quyền cá nhân mà phải là người bảo hộ các quyề! n đó.
Chính khi nâng cao các quyền lợi của họ mà các công dân trong một thể chế
dân chủ thực hiện các nghĩa vụ và bổn phận của họ.
Nói rộng ra th́ các nghĩa vụ này bao gồm cả sự tham gia vào các hoạt động
dân chủ để đảm bảo dân chủ được thực hiện. Ở mức tối thiểu, các công dân
nên tự t́m hiểu, nghiên cứu các vấn đề bức xúc đang diễn ra trong xă hội
của họ, như việc bỏ phiếu bầu cho các vị trí lănh đạo cao cấp sao cho sáng
suốt. Và thực hiện một số nghĩa vụ khác như tham gia đoàn hội thẩm trong
các phiên ṭa dân sự hoặc h́nh sự m! 897;t cách tự nguyện hoặc đôi khi
tuân theo lu& #7853;t qui định.
Cốt lơi của hành động dân chủ là sự tham gia của các công dân một cách
tích cực và tự do lựa chọn vào trong đời sống công cộng của cộng đồng hay
quốc gia của họ. Nếu không duy tŕ được sự tham gia rộng răi này, dân chủ
sẽ tàn lụi và trở thành đặc quyền cho một nhóm nhỏ đă được lựa chọn trong
các tổ chức. Nhưng với sự cam kết tích cực của các cá nhân trong toàn xă
hội, các thể chế dân chủ có thể vượt qua các cơn băo chính trị hay kinh tế
- là các vấn đề không thể tránh khỏi đối với mọi xă hội, mà không phải hy
sinh các quy̓! 3;n lợi và sự tự do mà họ đă tuyên thệ ǵn giữ.
Sự tham gia tích cực vào đời sống xă hội thường được hiểu một cách hạn hẹp
như là sự tranh giành các vị trí chính trị. Nhưng sự tham gia của các công
dân trong một xă hội dân chủ mang ư nghĩa rộng lớn hơn rất nhiều việc chỉ
tham gia vào các cuộc tranh cử. Ở mức độ tỉnh hoặc địa phương, các công
dân có thể tham gia vào những việc như họat động trong các ủy ban trường
học, thành lập các nhóm cộng đồng hoặc kể cả giữ các vị trí lănh đạo ở địa
phương. Ở mức độ! bang, tỉnh, hoặc quốc gia, các công dân có thể ; đóng
góp ư kiến của họ bằng cách phát biểu hoặc gửi văn bản tới các cuộc tranh
luận về các vấn đề công cộng hoặc họ có thể tham gia vào các đảng chính
trị, liên đoàn lao động hoặc các tổ chức t́nh nguyện. Cho dù ở mức độ nào,
một nền dân chủ lành mạnh cũng dựa trên sự tham gia liên tục, công khai
của số đông công dân.
Diane Ravitch đă viết:" Dân chủ là một quá tŕnh, một cách thức sống và
làm việc cùng nhau. Đó là một quá tŕnh luôn phát triển chứ không đứng im.
Nó đ̣i hỏi sự hợp tác, thỏa hiệp, và dung ḥa giữa các công dân. Làm cho
dân chủ được thực hiệ! ;n là một điều khó khăn chứ không dễ dàng. Tự do
đồng nghĩa với nghĩa vụ chứ không phải tự do từ nghĩa vụ."
Thể chế dân chủ là sự biểu hiện các lư tưởng về tự do và tự thể hiện,
nhưng nó cũng là sự thể hiện rơ ràng về bản chất của loài người. Nó không
đ̣i hỏi con người phải có một đạo đức toàn diện, nó chỉ đ̣i hỏi con người
phải có trách nhiệm. Như nhà thần học người Mỹ Reinhold Nieburh đă phát
biểu:" Khả năng của con người đấu tranh cho sự công bằng sẽ tạo nên dân
chủ, nhưng sự suy đồi c̗! 1;a con người dẫn tới bất công sẽ t ạo nên đ̣i
hỏi tất yếu của dân chủ." |