Sự đi từ Sài g̣n ra Huế, tư lệnh bô. Nhật nói rằng
tôi đau đầu và nhiều tuổi, đi tàu bay không được, v́
phải bay cao, để đi xe lửa tiện hơn. Tôi bảo đi cách
nào cũng được, miễn là đi được mà thôi. Xe lửa lúc
bấy giờ chỉ có những toa hạng ba và hạng tư, chứ không
có những toa hạng nhất và hạng nh́ nữa. Song người
Nhật lấy một toa hạng nhất cũ để hai cái ghế dài cho
tôi đi với viên thiếu úy và một người Nhật làm thông
ngôn tiếng VN.
Khi xe lửa nghỉ ở Nha Trang, tôi ghé vào nhà ông Đặng
Phúc Thông coi xe lửa vùng ấy, và ăn cơm ở đấy. Tôi
vào đấy là cốt hỏi tin tức nhà v́ bà Thông là bạn
với nhà tôi. Đến sáng ngày mùng 5 tháng tư, vào hồi 10
giờ rưỡi th́ tới Huế.
Xe lửa vừa đậu xong, thấy một người Nhật ra đón,
xưng tên là Urabé, làm lănh sư. Nhật ở Huế, rồi về
cả nhà ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật. Đến tối
gặp ông Hoàng Xuân Hăn mừng quá, ngồi uống chén nước
và nói vài câu chuyện hàn huyên. Rồi tôi xin về nhà ông
Hăn nghỉ. Vừa về đến nhà chưa được năm phút, thấy
ông Urabé trở lại báo tin cho tôi biết là vợ con tôi ở
Hà Nội đă vào đến Huế rồi.
Tính ông Urabé rất vui vẻ, ông nói rằng: "Kỳ quá, khi tôi
trở về, đi qua sở hiến binh Nhật, nhân có tí việc ghé
vào đấy thấy có một người con gái biết nói tiếng
Nhật, nói định qua Xiêm t́m cha. Tôi hỏi th́ chính là con
cụ. Tôi liền đến khách sạn đón bà cụ về nhà tôi".
Ngay lúc ấy con và rể tôi ở ngoài chạy vào, mừng rỡ
khóc lóc.
Hỏi ra mới biết vợ và con tôi ở Hà Nội, nghe tin tôi
ở Băng Cốc, thấy Nhật Bản đảo chính rồi mà măi không
thấy tôi, mới mầy ṃ xin phép đi sang Xiêm t́m. Đi đến
Huế nghe người ta nói mang máng là tôi đă về Huế, nhân
khi xe lửa nghỉ ở đấy đến tối mới chạy, bèn vào
hiến binh Nhật hỏi xem tin ấy có đúng không. Ấy là cùng
một ngày không hẹn mà tôi và vợ con tôi gặp nhau ở
Huế.
Vua Bảo Đại biết tin ấy, cho dọn cái nhà của viên đại
úy Bon ở trước trong thành cho chúng tôi ngụ tạm. Lúc ấy
tôi cũng chưa biết rơ t́nh thế ra sao, chỉ đinh ninh chờ
sau khi vào yết kiến vua Bảo Đại rồi xin về Hà Nội
dưỡng bệnh.
Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như
thế nào. V́ trong thời bảo hộ của nước Pháp, h́nh như
ngài chán nản không làm ǵ cả, chỉ săn bắn và tập thể
thao. Hôm mùng 7 tháng tư tôi vào yết kiến thấy có vẻ
trang nghiêm và nói những điều rất đúng đắn.
Ngài nói:
"Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay
đă không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh
đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có
hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đă tuyên hủy hiệp
ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và
lập chính phủ để đối phó với mọi việc."
Tôi tâu rằng:
"Việc lập chính phủ, ngài nên dùng những người đă dự
định từ trước, như Ngô Đ́nh Diệm chẳng hạn, để có
tổ chức sẵn sàng. Tôi nay th́ phần già yếu bệnh tật,
phần th́ không có đảng phái và không hoạt động về
chính trị, tôi xin ngài cho tôi về nghỉ."
Ngài nói:
"Trẫm có điện thoại gọi cả Ngô Đ́nh Diệm về, sao
không thấy về."
Tôi tâu:
"Khi tôi qua Sài g̣n, có gặp Ngô Đ́nh Diệm và ông ấy
bảo không thấy người Nhật nói ǵ cả. Vậy hoặc có sự
ǵ sai lạc chăng. Ngài cho điện lần nữa gọi ông ấy
về. C̣n tôi th́ xin ngài cho ra Bắc."
Ngài nói:
"Vậy ông hăy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hăy
ra Bắc."
Lúc ấy tôi mệt nhọc lắm, và có mấy người như bọn
ông Hoàng Xuân Hăn đều bảo tôi trở lại. Tôi chờ đến
gần mười ngày. Cách độ ba bốn hôm tôi lại đi hỏi ông
tối cao cố vấn Nhật xem có tin ǵ về ông Diệm chưa.
Trước th́ cố vấn Nhật nói chưa biết ông Diệm ở
đâu, sau nói ông Diệm đau chưa về được. Đó là lời
tối cao cố vấn, chứ tự ông Diệm không có điện riêng
xác định lại.
Vua Bảo Đại thấy t́nh thế kéo dài măi cũng sốt ruột,
triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập chính phủ mới.
Ngài nói:
"Trước kia người ḿnh chưa độc lập. Nay có cơ hội,
tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng ḿnh cũng phải tỏ ra
có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ
th́ người Nhật bảo ḿnh bất lực, tất họ lập cách cai
trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông
nên v́ nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo
việc nước."
Tôi thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu t́nh thế,
liền tâu rằng:
"Nếu v́ quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức ǵ
cả, xong ngài nói v́ nghĩa vụ đối với nước, th́ dù sao
tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để
tôi t́m người, hễ có thể được tôi xin tâu lại."
Tôi ra bàn với ông Hoàng Xuân Hăn để t́m người xứng
đáng làm bộ trưởng. Nguyên tắc của tôi định trước
là lựa chọn những người có đủ hai điều kiện. Một:
phải có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị,
hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính
phục.
Cách lựa chọn như thế cũng khó, v́ từ lâu nay chỉ có
những người mềm lưng khéo thù phụng mới được ngôi
cao, quyền cả, c̣n những người ngay chính ẩn nấp ở
đâu đâu, ít khi biết được. Người xu danh trục lợi
th́ rất nhiều, nhưng không phải là người đương nổi
những việc trong thời kỳ khó khăn như ngày hôm nay.
Có một điều nên nói cho rơ, là trong khi tôi chọn người
lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao giờ
hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn
tự chủ t́m lấy người mà làm việc. Và tôi đă định
từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc
trong nước th́ tôi thôi ngay, không làm nữa.
Đến ngày cuối cùng tôi chọn được đủ người rồi kê
rơ danh sách các bộ trưởng như sau:
Trần Trọng Kim, giáo sư, Nội Các Tổng Trưởng Trần
Đ́nh Nam, y sĩ, Nội Vụ Bộ Trưởng Trần Văn Chương,
luật sư, Ngoại Giao Bộ Trưởng Trịnh Đ́nh Thảo, luật
sư, Tư Pháp Bộ Trưởng Hoàng Xuân Hăn, toán học thạc sĩ,
Giáo Dục và Mỹ Nghệ Bộ Trưởng Vũ Văn Hiền, luật sư,
Tài Chánh Bộ Trưởng Phan Anh, luật sư, Thanh Niên Bộ
Trưởng Lưu Văn Lang, kỹ sư, Công Chính Bộ Trưởng Vũ
Ngọc Anh, y khoa bác sĩ, Y Tế Bộ Trưởng Hồ Bá Khanh, y
khoa bác sĩ, Kinh Tế Bộ Trưởng Nguyễn Hữu Thi, cựu y
sĩ, Tiếp Tế Bộ Trưởng.
Chừng mười giờ sáng ngày 17 tháng tư năm 1945, tôi đem
danh sách ấy vào tŕnh vua Bảo Đại. Vào đến nơi, tôi
thấy ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, đă ngồi đó
rồi. Ông thấy tôi vào liền hỏi: "Cụ đă lập thành
chính phủ rồi à?". Tôi nói: "Vâng, hôm nay tôi đem danh
sách các bộ trưởng vào tâu tŕnh hoàng thượng để
ngài chuẩn y".
Tôi đệ tŕnh vua Bảo Đại, ngài xem xong phán rằng:
"Được". Khi ấy ông Yokohama nói: "Xin cho tôi xem là những
ai". Ông xem rồi, trả lại tôi và nói: "Tôi chúc mừng cụ
đă chọn được người rất đứng đắn". Sự thực là
thế, chứ không như người ta đă tưởng tượng là
người Nhật Bản bắt tôi phải dùng những người của họ
đă định trước.
Sau khi lập xong chính phủ, họp hội đồng chính phủ, tôi
muốn đặt chức Nội Các Phó Tổng Trưởng để pḥng khi
tôi nhọc mệt, hay đi đâu vắng có người thay tôi làm
việc. Tôi xem các ông bộ trưởng lúc ấy trừ ông Lưu
Văn Lang ở Sài g̣n không ra nhận chức, có ông Trần Văn
Chương, bộ trưởng bộ ngoại giao, là người nhiều tuổi
hơn, tôi xin cử ông Chương xung chức ấy.
Cả nội các đều ưng thuận. Việc ấy là tôi định, chứ
không phải do người Nhật can thiệp. Tôi nói rơ việc ấy
là v́ sau này tôi thấy có người nói: Người Nhật bắt
tôi phải để ông Chương làm Nội Các Phó Tổng Trưởng.
Đó cũng là một sự tưởng lầm.
Khi tôi đứng ra lập chính phủ, không phải không hiểu
t́nh thế rất khó của nước VN đối với nước Pháp, và
nước Pháp với các nước Đồng Minh. Sự biến xảy ra ở
nước VN, nguyên là một nước có văn hóa có chế độ
phân minh, nhân khi trong nước suy nhược, người Pháp sang
lấy vơ lực bắt phải chịu cuộc bảo hộ của người
Pháp. Dù có hiệp ước của triều đ́nh VN đă kư với
người Pháp, chẳng qua cũng chỉ là một tờ hiệp ước
cưỡng bách mà thôi. Và chính người Pháp về sau cũng
đă không giữ đúng những điều kư trong hiệp ước ấy.
Nay nước Pháp thất bại, để người Nhật chiếm giữ
mất cả quyền lợi, vua Bảo Đại đă đứng lên tuyên bố
độc lập th́ nghĩa vụ của người VN là ai nấy đều
phải cố sức làm việc giúp nước, rồi sau t́nh thế thay
đổi thế nào sẽ có cuộc điều đ́nh cho đúng công lư
và đúng phong trào hiện thời.
Theo lư tưởng ấy, nên ngay từ lúc đầu trong lời tuyên
bố của chính phủ, tôi đă nói những công việc quốc dân
phải lo để gầy lại nền tự chủ nước nhà mà thôi,
chứ không nói về việc chiến tranh của nước Nhật với
các nước Đồng Minh, chủ ư muốn tránh sự người Nhật
có thể lôi kéo người ḿnh vào cuộc chiến tranh của họ.
Lúc chính phủ chúng tôi mới lập ra, bao nhiêu chính quyền
của người Pháp giữ trước và việc cai trị ở các tỉnh
đều do viên tối cao cố vấn Nhật tạm thời quyết
định. Những văn thư và tờ tŕnh báo, các cơ quan ở
tỉnh đều gửi qua bên pḥng tối cao cố vấn.
Những dinh thự của các bộ trưởng, thượng thư cũ đều
chật hẹp, dột nát, dơ bẩn, không ở và làm việc
được. Vậy trước hết, phải lo t́m nhà và các sở làm
việc.
Khi c̣n chính phủ bảo hộ th́ có hai chính phủ, mọi việc
quan hệ đến chính trị trong nước th́ do chính phủ bảo
hộ định đoạt. Chính phu? Nam Triều có vua và triều
đ́nh, nhưng chỉ đặt ra để thi hành những mệnh lệnh
của chính phủ bảo hộ mà thôi, chứ không có quyền hành
ǵ cả. Nay phải hợp nhất cả hai chính phủ này, bắt các
quan ở các tỉnh chỉ được trực tiếp với chính phu? VN
mà thôi, và cấm không cho gửi văn thư về sở tối cao
cố vấn Nhật nữa.
May lúc đó được viên tối cao cố vấn Nhật là ông
Yokohama, một người am hiểu t́nh thế và nhă nhặn, cho
nên mọi việc cũng giải quyết được dễ dàng.
Đem lại sự thống nhất trong việc cai trị như thế mà
cũng mất hơn một tháng mới xong. Ấy là chỉ nói việc
sửa đổi cai trị thôi, c̣n các cơ quan trọng yếu như
công an, sở tuyên truyền công văn hăy c̣n ở trong tay
người Nhật cả.
Quan lại ở các tỉnh, phần nhiều là những tham quan ô lại
chỉ quen sự thi hành mệnh lệnh của người Pháp, chứ
không mấy người có đủ tư cách làm người công chức
một nước tự chủ. Muốn thay đổi các quan lại là một
chuyện rất khó. Những người làm chính trị nói huyên
thuyên th́ nhiều, song những người chín chắn biết suy
nghĩ và biết cách đối lại với dân chúng cho êm ái th́
ít. Việc chính trị là một việc rất phức tạp, cần
phải có nhiều lịch duyệt và tài cán mới làm được. Nay
muốn thay đổi các quan lại, th́ phải từ từ lựa chọn
nhân viên cho xứng đáng, chứ đem người mới làm việc
lại dở hơn người cũ, th́ chỉ làm rối việc chứ không
có ích ǵ. Tuy thế, nhưng chỗ nào có viên tỉnh trưởng
bất lực lắm, chúng tôi cố t́m trong những nhân vật
mới, xem ai có thể làm được đem ra thay. Hăy làm thử
như thế một vài nơi xem hiệu quả thế nào. Nhưng xét ra
hiệu quả mong đợi cũng không được mỹ măn lắm.
Chính sách của chúng tôi lúc bấy giờ, v́ t́nh thế chưa
được vững chắc nên phải đi từ từ, không làm điên
đảo hết cả, sợ gây ra rối loạn.
Việc quan hệ nhất về đường nội trị lúc ấy là phải
lo sự vận tải để tiếp tế miền bắc, dân t́nh đói
khổ người chết đói hàng ngàn hàng vạn. V́ vậy chúng
tôi ra Bộ Tiếp Tế chuyên coi việc vận tải thóc gạo
trong nam ra bắc. Bộ ấy không đạt được mục đích của
chính phủ v́ sự vận tải khó khăn quá, đường xe lửa
bị hư hỏng, thuyền bè đi ngoài bể bị tàu ngầm đánh và
bị cướp bóc mất cả.
Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận
mạng cả nước, mà lúc ấy quân lính và súng ống không
có. kinh đô Huế có tất cả hơn một trăm lính bảo an,
tức lính khố xanh cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ đạn
cũ, bắn mười phát th́ năm sáu phát không nổ.
Các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các
phủ huyện th́ độ chừng vài chục người. Việc pḥng bị
do quân Nhật đảm nhiệm hết. V́ lẽ đó và các lẽ khác
nữa mà lúc đầu chúng tôi không đặt bộ quốc pḥng.
Một là trong khi quân Nhật đang đóng ở trong nước, nếu
ḿnh đặt bộ quốc pḥng th́ chỉ có danh không có thực,
và người Nhật có thể lợi dụng bắt người ḿnh đi
đánh giặc với họ. Hai là trước khi ḿnh có đủ binh
lính và binh khí, ta hăy nên gây cái tinh thần binh bị, th́
rồi quân đội ḿnh mới có khí thế.
Nhiều người ở ngoài không hiểu ư chúng tôi buông lời
bài xích rằng sao có chính phủ mà không có bộ quốc
pḥng. Học không biết rơ t́nh thế lúc bấy giờ bắt
chúng tôi phải trù tính mọi việc cho chu đáo, tránh làm
những việc hớ hênh có hại cho dân cho nước. Không có
bộ quốc pḥng, nhưng lại có bộ thanh niên, lập ra các
đạo thanh niên tiền tuyến, để một ngày kia thành những
đội quân có tinh thần mạnh mẽ.
Nói về chương tŕnh chính trị của chính phủ lúc ấy,
chúng tôi đă có chương tŕnh dự định trước. Theo ư
tôi, bất cứ trong một chính thể nào, việc của chính
phủ là phải lấy sự dân sinh làm trọng, nghĩa là phải làm
cho dân an cư lạc nghiệp, rồi t́m cách giáo hóa nâng cao
tŕnh độ dân chúng về đường tinh thần và đường
vật chất cho hợp thời để tiến thủ với các dân tộc
khác, mà vẫn giữ được đặc tính của ḿnh. Song trong
t́nh thế của nước VN mới bước đầu đi vào con
đường tự chủ, có nhiều sự cản trở khó khăn, chúng
tôi phải lo làm những việc cần kíp có thể làm ngay
được, như việc tiếp tế đă nói ở trên, việc mời
các chính khách c̣n phiêu lưu nước ngoài trở về nước,
và xóa bỏ những h́nh ảnh bất công để những người ái
quốc c̣n đang bị giam cầm trong các lao ngục có thể tùy
tài ra tham dự việc kiến thiết quốc gia. Chúng tôi lại
muốn gây nuôi ḷng hy sinh v́ nước mà dựng đài kỷ
niệm ở các nơi đô thị lớn để ghi những sự nghiệp
của các bậc anh hùng chí sĩ đă quên ḿnh v́ ṇi giống,
v́ tổ quốc trong khoảng bảy tám mươi năm vừa quạ
Đối với quan lại cũ, có nhiều người đă quen thói tham
nhũng, chúng tôi định sẽ t́m cách trừng trị rất nghiêm.
Nhưng lúc đầu chúng tôi muốn mở rộng con đường cải
thiện để ai biết hối quá cải tà qui chính, th́ được
yên ổn làm việc, cốt để gây lại ḷng biết liêm sĩ
của người đă đi lầm đường lạc lối. Những công
việc ấy, chúng tôi đă khởi đầu làm cả.
Về đường cải tổ chính thể, là những việc quan trọng,
cần phải có th́ giờ suy nghĩ kỹ. Trước hết chúng tôi
lập ra những tư vấn hội nghị ở các địa phương theo
phương pháp của chúng tôi đă định, để chọn lấy những
người lịch duyệt và có học thức ra giúp các cơ quan
hành chính địa phương, lo việc cai trị trong hạt. Những
tư vấn hội nghị địa phương ấy sẽ chọn lấy những
người xứng đáng lập thành một tư vấn hội nghị toàn
quốc, giúp chính phủ trong việc cải tổ quốc gia và thảo
một dự án về hiến pháp, đợi đến khi có quốc hội
lập hiến sẽ đem ra thảo luận.
Đó là chương tŕnh những việc chính phủ dự định để
tùy t́nh thế và phương tiện mà thi hành. Nhưng v́ thời
gian eo hẹp quá, nên chưa thực hiện được.
Nước VN đă là một nước tự chủ th́ phải có quốc kỳ
và quốc ca. Bài quốc ca th́ từ trước vẫn dùng bài
"Đăng Đàn" là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm
trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có
nghĩa lư hơn th́ hăy cứ dùng bài ấy.
C̣n lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi
định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ư kiến ǵ,
th́ vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ ly ở
giữa là có ư nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu
ấy làm quốc kỳ.
Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách
Quốc Sử Diễn Ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh
quân Tàu, đă dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu
rằng "Đầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ
vàng là hợp với cái ư cách mệnh của tổ quốc, lấy
dấu hiệu quẻ ly là v́ trong lối chữ tối cổ của ta có
tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch
đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và
bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ ly chủ
phương nam. Chữ LY c̣n có nghĩa là lửa, là văn minh, là
ánh sáng phóng ra bốn phương.
Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp
với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn
hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng
quẻ ly có đủ các ư nghĩa.
Song có người nói: cờ quẻ ly là một điềm xấu cho nên
thất bại, v́ ly là ĺa. Ly là ĺa là một nghĩa khác chứ
không phải nghĩa chữ ly là quẻ. Và việc làm của một
chính phủ là cốt ở cái nghĩa lư, chứ không phải sự tin
nhảm vô ư thức.
Việc thất bại là v́ t́nh thế chứ không phải v́ lá
cờ. Giả sử dùng lá cờ khác mà trong hoàn cảnh lúc ấy
có thể thay đổi được ǵ không?
Việc chính trị ở trung bộ dần dần đă rơ rệt, nhưng
ở bắc bộ và Nam Bộc̣n trong tay người Nhật. Chính phủ
trước phải lo thu lại hết toàn thể nước VN về một
mối. Nước VN từ bắc chí nam vốn là một nước duy
nhất về lịch sử, về phong tục và về ngôn ngữ. Tuy về
địa dư th́ h́nh thể nước chạy dài hơn hai ngàn cây
số, nhưng tính cách duy nhất thật rơ rệt, ít nước nào
trong thiên hạ được như thế. Sau v́ có sự lấy thuộc
địa và sự bảo hộ của nước Pháp, đem chia nước làm ba
đoạn là nam kỳ, trung kỳ và bắc kỳ. Mỗi một kỳ có một
chính sách khác nhau như ba nước vậy. Sự chia ngắt ra
như thế là một lối chính trị dùng phương pháp "chia ra
để thống trị". Song sự chia ngắt ấy lấy áp bức mà
đặt ra, chứ về phương diện người bản quốc th́ chữ
"kỳ" chỉ có nghĩa là khu, xứ, bộ, phận, như ta nói: xứ
bắc, xứ trung, xứ nam mà thôi, không có nghĩa ǵ là một
nước. Người Pháp cũng biết thế nên mới dựng tiếng
tàu là Tông Kinh (Đông Kinh) gọi bắc kỳ, và dùng tiếng
Cochinchine là tiếng ǵ chẳng biết để gọi nam kỳ cho ra
vẻ ba nước khác nhau. Nhưng khi ai hỏi một người VN, bất
cứ ở nam hay bắc, là người nước nào, th́ người VN
ấy tự nhiên đáp lại rằng: "Tôi là người An Nam".
Tiếng An Nam là tiếng người ta đă quen dùng từ đời Lê
thành ra phổ thông hơn.
Vậy việc thu cả ba kỳ về quyền trung ương để thống
nhất đất nước như khi chưa bị sự bảo hộ của nước
Pháp là việc rất trọng yếu của chính phủ tôi. Trong sự
điều đ́nh với người Nhật để thu lại lănh thổ
nước VN gặp nhiều sự khó khăn. Trước hết người
Nhật bằng ḷng trả đất Bắc Bộ cho chính phu? VN, song
những đất thuộc ba thành: Hà Nội, Sài g̣n, Đà Nẵng
và Nam Bộ là đất vua VN ngày trước đă kư kết cho
nước Pháp th́ người Nhật đ̣i tạm giữ đến khi nước
VN hoàn toàn độc lập sẽ trả sau.
Chính phu? VN viện lẽ quân Nhật đánh quân Pháp để giải
phóng cho VN và vua Bảo Đại đă tuyên bố bỏ hết những
hiệp ước đă kư với nước Pháp, th́ lẽ tất nhiên là
người Nhật phải trả toàn lănh thổ cho vua VN. Nay nếu
người Nhật cứ giữ lấy những đất ấy là trái với
lời hứa hẹn trước.
Trong khi c̣n đang điều đ́nh về việc thu toàn lănh thổ,
chúng tôi đă định áp dụng dự án của chúng tôi về
đường chính trị, là chính phủ trung ương nhiếp thống
hết cả những cơ quan quan hệ đến cuộc chính trị chung
cả nước như quốc pḥng, ngoại giao, tài chánh, giáo dục
v...v... C̣n về đường cai trị th́ chia nước ra mấy địa
phương, đại khái như Bắc Bộ Địa Phương, Trung Bộ Địa
Phương và Nam Bộ Địa Phương. Mỗi địa phương được
quyền tự trị về phương diện cai trị và kinh tế. Các
cơ quan hành chính các địa phương do chính phủ trung ương
chọn người bản xứ cử ra và có các nhân vật hội nghị
kiểm duyệt. Khi c̣n chờ có hiến pháp và sự tuyển cử
phân minh, các cơ quan hành chính ở các địa phương hăy
tạm cử những nhân vật xứng đáng ra xung chức địa
phương tư vấn nghị viên. Chúng tôi cho chính sách địa
phương tự trị như thế có nhiều điều tiện lợi và
hợp với t́nh thế từng xứ về đường cai trị và
đường kinh tế, mà không hại ǵ cho sự thống nhất của
nước nhà.
|