GS Trần Quang Hải ( TQH ):
« Âm nhạc Việt Nam đang đuối sức » theo nhạc
sĩ Quốc Bảo ư ? Điều này chỉ đúng một phần nào theo hiện trạng của nền tân
nhạc trẻ Việt Nam tại quốc nội mà thôi. Đó là điều phải nhấn mạnh chứ không
thể nói một cách mơ hồ v́ tân nhạc Việt Nam từ trước tới nay có rất nhiều
bài bản đă đi vào đời sống người dân và đă lưu lại trong ḷng hàng triệu
người trong và ngoài nước từ hơn 50 năm như
« Biệt ly » ( Doăn Mẫn ), « Con thuyền không bến » ( Đặng Thế Phong ),
« Đêm Tàn Bến Ngự » ( Dương Thiệu Tước ),
« Đêm Đông » (Nguyễn Văn Thương),
« Chùa Hương » ( Hoàng Quư ), « Mơ Hoa » ( Hoàng
Giác ), « Gửi gió cho mây ngàn bay » ( Tô Vũ ), v.v. Ngay cả hiện nay có hàng
trăm nhạc sĩ sáng tác hàng ngh́n, hàng chục ngh́n bài
« nổi / ch́m » lẫn lộn
từ khắp các nẻo đường Việt Nam. Ngay tại hải ngoại, cũng có vài chục nhạc sĩ
trẻ hăng say sáng tác và một số ca khúc không dựa vào nhạc xứ nào hết mà rất
được yêu thích.
Sau khi Việt Nam bắt đầu mở cửa, trước những luồng nhạc trẻ Tây phương ( phần
lớn là nhạc Mỹ, Anh, Pháp ), và luôn cả nhạc trẻ Nhật, Đại Hàn, Hồng Kông,
Trung Quốc, Đài Loan và Thái Lan, các nhạc sĩ trẻ Việt Nam tại quốc nội t́m
nguồn cảm hứng qua các luồng sóng nhạc ngoại nhưng chưa kịp «tiêu hóa» và
lại phải « nuốt, ngốn » để sáng tác thật mau, thật nhiều sáng tác mới dựa trên
nhạc ngoại hầu cung ứng thị trường đang trên đà thay đổi sở thích quá nhanh
chóng. Và gần đây, nhạc quốc nội xôn xao về vấn đề
“ đạo nhạc ”. Trong số vài
nhạc sĩ bị nghi vấn có Quốc Bảo. NS Quốc Bảo là một nhạc sĩ đàn ghi-ta trong
ban nhạc của cố NS Phạm Trọng Cầu và là người dạy nhạc lư ở trường cao đẳng
sư phạm. Anh đă từng tự cho ḿnh ngang hàng với cố NS Trịnh Công Sơn, và c̣n
tuyên bố là «tôi ra sức cứu văn nền ca nhạc Việt Nam».
Tuy nhiên cả hai bài « T́nh thôi xót xa » ( Bảo Chấn viết lời Việt trên nhạc
Nhật ) và « Tuổi 16 » ( Quốc Bảo viết lời Việt trên ca khúc Renaissance Fair )
chỉ là ca khúc thông thời thị trường chưa được xếp vào những thành tựu của
tân nhạc Việt Nam.
Việc sao chép ca khúc ngoại quốc là hậu quả của nhu cầu của giới trẻ trong
nước đ̣i hỏi cái mới liên tục quá mau hơn đà phát triển tự nhiên, và hiện
tượng «siêu sao» đă làm đảo lộn đời sống. Nhạc trẻ không kịp cung ứng nhu
cầu quá vội vàng của giới trẻ. Mức sáng tác nhạc bị «chùn» lại và nguồn hứng
của các nhạc sĩ cũng cạn đi. Nhạc ngữ hết phù hợp với sở thích giới trẻ. Lời
không c̣n lăng mạn du dương như thời tiền chiến mà là những ngôn từ ngớ
ngẩn, ngây thơ, đôi khi trắng trợn, thiếu tŕnh độ. Lời nhận xét của NS Quốc
Bảo về sự đang đi xuống của âm nhạc Việt Nam hoàn toàn thiếu suy nghĩ, nếu
không nói là thiển cận, hấp tấp. Tôi vừa ngạc nhiên lẫn thất vọng khi biết
NS Quốc Bảo c̣n là một nhà phê b́nh âm nhạc từ nhiều năm qua tại Sài G̣n và
có uy tín đối với giới trẻ và nhạc trẻ Việt Nam.
Là một nhạc sĩ nhạc truyền thống Việt Nam và nhạc đương đại Tây phương từ
hơn 40 năm tại Pháp, có thể tôi có một cái nh́n khác với một số nhạc sĩ tại
quốc nội. Đôi lúc, tôi nghĩ ḿnh được may mắn hơn người khác, tỷ như:
1 —
Tôi sinh ra trong một gia đ́nh nhạc sĩ cổ truyền từ hơn 150 năm, là
đời thứ 5 trong gia đ́nh họ Trần và được hấp thụ hai nền âm nhạc Đông Tây.
2 —
Cái may mắn thứ hai là tôi được học suốt 10 năm, vừa thực tập vừa học
lư thuyết nhạc Á châu tại Trung tâm nghiên cứu nhạc Đông phương ( Centre of Studies for Oriental Music ) tại Paris do thân phụ tôi làm giám đốc. Tôi
được học nhạc truyền thống Ả rập, nhạc Ba Tư, nhạc Ấn độ, nhạc Trung quốc,
Đại Hàn, Nhật, Nam Dương. Chính sự tiếp xúc trực tiếp với những truyền
thống nhạc dân tộc của các quốc gia Á châu qua các nhạc khí mà tôi luyện
tập đă làm giàu số vốn âm nhạc sẵn có trong tôi, và mở rộng tầm mắt tôi
trong việc sáng tác và tŕnh diễn.
3 —
Cái may thứ ba là tôi học nhạc cổ điển Tây phương ở trường quốc gia âm
nhạc Sài G̣n ( 1955-61 ), và sau đó theo học lớp sáng tác nhạc điện thanh
( electro-acoustical music ) năm 1965 với cố nhạc sư Pierre Schaeffer, người
sáng lập ra nhạc điện tử ( electronic music ), và nhạc cụ thể ( concrete
music ).
4 —
Cái may thứ tư là tôi học môn nghiên cứu nhạc học (musicology) tại đại
học đường Sorbonne ( 1962-67 ) để có dịp nghe tất cả loại nhạc cổ điển Tây
phương từ thời Trung cổ tới đương đại ( Schönberg, Xenakis, Boulez, v.v. ).
Từ năm 1962 tới 1969 tôi học thêm bộ môn dân tộc nhạc học
( ethnomusicology ) để khám phá gia tài âm nhạc truyền thống thế giới.
5 —
Cái may thứ năm là tôi được đào tạo thành một nhà nghiên cứu nhạc dân
tộc tại Paris, thủ đô của văn hóa và văn minh thế giới, và tạo cả một sự
nghiệp âm nhạc từ hơn 40 năm qua. Tôi thuộc thế hệ tiên phong của bộ môn
nghiên cứu dân tộc nhạc học, tham gia tích cực vào phong trào chấn hưng
dân nhạc tại Pháp và Âu châu từ năm 1965 tới 1975.
6 —
Cái may thứ sáu là tôi vừa là nhà nghiên cứu và vừa là nhạc sĩ tŕnh
diễn. Tôi đă tŕnh diễn trên 3.000 buổi tại hơn 60 quốc gia trên thế giới,
tham gia tại hơn 130 đại hội liên hoan nhạc truyền thống quốc tế.
Về nhạc cổ truyền, cách đây 50 năm, ít có ai để ư tới nhạc cổ truyền nói
chung. Nhạc sĩ Ravi Shankar, một danh cầm đàn Sitar Ấn độ, đă chinh phục Tây
phương từ cuối thập niên 50. Ông c̣n là thầy của George Harrisson ( một nhạc
sĩ của nhóm The Beatles ), của John Coltrane ( Jazz ). Ông đă làm vang danh
nhạc Ấn độ khắp nơi trên thế giới. Ảnh hưởng của nhạc Ấn độ có thể t́m thấy
ở nhạc đương đại Âu Mỹ (sáng tác của nhà soạn nhạc Pháp Jacques
Charpentier ), ở nhạc trẻ pop ( The Beatles, và nhiều nhóm nhạc pop khác trong
thập niên 60 ở Anh Quốc ). Nhạc cổ truyền Nam Mỹ, đặc biệt của xứ Péru,
Bolivia đă xâm chiếm thị trường nhạc mới suốt thập niên 60. Rồi tới nhạc Phi
Châu, nhạc RAI Ả rập, nhạc du mục Gypsy Đông Âu trong thập niên 70 và 80.
Hiện tượng nhạc thế giới ( World Music ) được phát hiện vào giữa thập niên 80
là sự giao lưu giữa nhạc cổ truyền và nhạc trẻ Tây phương đă giúp cho giới
trẻ thế giới khám phá những truyền thống âm nhạc cổ xưa của các lục địa. Gần
đây nhất, kỹ thuật hát đồng song thanh của dân Tuva, dân Mông cổ, và dân
Xhosa ( Nam Phi ) được thế giới khâm phục. Cách đây 30 năm, nguyên cả xứ Tuva
và xứ Mông cổ chỉ có khoảng vài chục người biết về kỹ thuật hát hai giọng
cùng lúc này. Năm 2004, tại hai quốc gia vừa kể có trên 3.000 người hát
chuyên nghiệp và hàng năm đều có tổ chức đại hội liên hoan hát đồng song
thanh. Nhạc Phật giáo Tây Tạng rất được ưa chuộng từ hơn 40 năm. Ống thổi
Didjeridu của thổ dân Úc trở thành nhạc khí rất được ưa thích tại Âu Mỹ từ
1990. Đàn môi Mông của miền thượng du Bắc phần Việt Nam trở thành nhạc khí
bán chạy nhất ở Âu Mỹ, đến nỗi có một người Đức đă làm một trang nhà lấy tên
là Đàn Môi chuyên bán đàn môi Mông (
www.danmoi.de ), một phần lớn là nhờ vào
sự biểu diễn đàn môi Mông do tôi tŕnh diễn từ hơn 20 năm nay tại nhiều đại
hội liên hoan nhạc dân tộc trên thế giới. Nhạc đàn gamelan của Nam Dương,
nhạc cung đ́nh Gagaku, nhạc tuồng Kabuki, nhạc múa rối Bunraku, nhạc đàn
tranh koto của Nhật, nhạc cung đ́nh Ah Ak, nhạc đàn tranh kayakeum của Đại
Hàn, nhạc đàn cổ cầm Trung quốc, nhạc cung đ́nh Huế, ca trù, múa rối nước
của Việt Nam được thế giới ngưỡng mộ. Sự phát triển và bành trướng nhạc cổ
truyền Á châu và thế giới nói chung, và Việt Nam nói riêng, đă cho thấy là
nhạc dân tộc ngày càng được phổ biến rộng răi chứ không có mai một hay sụp
đổ ...
Nhạc đương đại Tây phương được dạy tại hầu hết các trường quốc gia âm nhạc
khắp năm châu. Sự giao lưu giữa các nhạc ngữ cổ điển và dân gian đă tạo một
trường phái mới cho nền âm nhạc thế giới. Những nhà sáng tác nhạc đương đại
gốc Việt đang sống ở hải ngoại, có thể kể: Cung Tiến, Nghiêm Phú Phi, Phan
Quang Phục ở Hoa kỳ; Nguyễn Văn Tường ( từ trần 1996 ), Trương Tăng ( từ trần
1989 ), Tôn Thất Tiết, Nguyễn Thiên Đạo, Trần Quang Hải ở Pháp, Hoàng
Ngọc-Tuấn, Nguyễn Mạnh Cường, Lê Tuấn Hùng, Đặng Kim Hiền ở Úc châu. Chỉ có
Trần Quang Hải, Hoàng Ngọc-Tuấn, Lê Tuấn Hùng và Đặng Kim Hiền là vừa sáng
tác và vừa tŕnh diễn nhạc của ḿnh.
Gia đ́nh tôi ( GS Trần Văn Khê, em gái tôi Trần Thị Thủy Ngọc và tôi ) đă đào
tạo hàng trăm nhạc sinh Việt và ngoại quốc về đàn tranh tại Pháp. Bạch Yến
và tôi đă có mặt tại trên cả trăm đại hội liên hoan nhạc quốc tế và tŕnh
diễn cả ngàn chương tŕnh tại trên 60 quốc gia. Nữ nhạc sĩ Phương Oanh và
nhóm Phượng Ca, sau 35 năm kiên tŕ đă tạo hàng ngh́n nhạc sinh đàn tranh và
các nhạc khí khác tại Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Na Uy, Úc, Canada, và luôn cả ở
Việt Nam. Nữ nhạc sĩ Quỳnh Hạnh cũng mở lớp dạy đàn tranh, bầu, trưng, thu
hút khá nhiều nhạc sinh tại Paris. Nhóm Hồng Lạc ở Canada, nhạc sĩ Phạm Đức
Thành, nhạc sĩ Khắc Chí, Bích Ngọc ở Canada, nhạc sĩ Nguyễn Thuyết Phong, nữ
nhạc sĩ Ngọc Dung, nhóm Lạc Việt ở Hoa kỳ, đă có nhiều sinh hoạt nhạc dân
tộc ở khắp Bắc Mỹ.
Nh́n vào nhạc quốc nội, sự phục hưng hay tái sinh của nhạc cung đ́nh Huế
(Ngày 7 tháng 11. 2003, UNESCO ban tặng một giấy khen nh́n nhận Nhạc Cung
Đ́nh Huế là «kiệt tác phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại» - Chef
d’œuvre de l’oral et de l’héritage intangible de l’humanité / Masterpiece of
the Oral and Intangible Heritage of Humanity ), ca trù, chầu văn, múa rối
nước và sự phát triển đàn tranh (nhờ sự đóng góp của nhạc sư Nguyễn Vĩnh
Bảo, nữ nhạc sĩ Phạm Thúy Hoan, nữ nhạc sĩ Phương Bảo, hai nữ nhạc sĩ trẻ
Hải Phượng và Thanh Thủy ) đă làm cho nhạc cổ truyền khởi sắc với nhiều
chuyến đi tŕnh diễn ở nước ngoài từ 15 năm nay. Các nhóm nhạc sĩ trẻ như
Phù Đổng, Tre Xanh, nhạc sĩ Đỗ Lộc, Phạm Thúy Hoan, Hải Phượng, ban ca trù
Thái Hà, đoàn múa rối nước Hà nội và Thành phố HCM, cũng như nhiều nghệ sĩ
cải lương có mặt thường xuyên tại nhiều đại hội liên hoan quốc tế. Viện âm
nhạc Hà nội (32 Nguyễn Thái Học, Hà Nội) là nơi tàng trữ hàng chục ngàn bài
hát dân ca, xuất bản nhiều CD, VCD nhạc dân tộc Kinh và các sắc tộc Thái,
Gia Rai, Ba-Na, v.v., sách nghiên cứu âm nhạc nói chung, và một pḥng triển
lăm hàng trăm nhạc khí dân tộc. Bao nhiêu đó đủ cho thấy nhạc cổ truyền Việt
Nam vẫn c̣n sống mạnh tại hải ngoại cũng như trong quốc nội.
( TTT ) : Tôi được biết Giáo Sư có nghiên cứu, thí nghiệm và giảng dạy
về kỹ thuật hát đồng song thanh (overtone singing). Giáo Sư có thể cho độc
giả biết nó là ǵ? Và kỹ thuật này có ứng dụng được vào âm nhạc Việt Nam
không? Giả dụ một bài t́nh ca hay dân ca chẳng hạn?
( TQH ): Hát đồng song thanh là hát cùng một lúc ra hai giọng ở hai cao
độ khác nhau. Một giọng trầm phát ra từ cổ họng tức là giọng chánh
(fundamental sound) và một giọng bổng thoát ra từ những bồi âm ( overtones )
của giọng chánh. Mỗi bồi âm mang một số chỉ định thứ tự cao độ. Điểm quan
trọng cần phải biết trong cách hát đồng song thanh là làm sao phải giữ
nguyên một cao độ cố định trong khi đó phải di chuyển các bồi âm theo một
giai điệu nào đó tùy theo bài bản lựa chọn trong giới hạn giữa bồi âm số 4
và bồi âm số 16. Người Mông cổ và người Tuva chuyên sử dụng bồi âm từ số 6
tới 13. Nếu tôi bắt đầu giọng chánh là Do th́ các bồi âm 6, 7, 8, 9, 10, 12,
13 sẽ có cao độ là Sol, La, Do, Ré, Mi, Sol tức là các nốt của một âm giai
ngũ cung. Những bài hát thuộc âm giai ngũ cung của các quốc gia khác đều có
thể hát với âm giai ngũ cung tạo bởi bồi âm, chẳng hạn như bài “Amazing
Grace”. Cái khó thứ ba trong cách hát đồng song thanh là làm sao hăm giọng
chánh cho thật nhỏ để cho bồi âm được nghe lớn hơn. Cách này có thể luyện
tập với phương pháp nín hơi trong cách lặn dưới nước
Hát đồng song thanh ( danh từ này do tôi đề nghị có nghĩa là hát hai giọng
cùng một lúc ) trong khi người Mông cổ và người Tuva dùng từ ngữ KHOOMEI (có
nghĩa là “giọng hầu”). Hát đồng song thanh được phát triển tại Âu châu từ
hơn 30 năm nay nhờ vào công tŕnh nghiên cứu của tôi khởi xướng từ năm 1969
tại Paris. Thế giới âm nhạc Tây phương chỉ biết nghệ thuật tạo bồi âm của
các nhà sư Tây Tạng thuộc nhánh Gyuto của trường phái Gelugpa ( Dalai Lama
thuộc trường phái này ) qua cách tụng kinh giọng thật trầm và phát ra bồi âm
số 10 ( quăng 3 trưởng trên 3 bát độ đối với cao độ của giọng chánh của người
hát ). Nhà soạn nhạc Đức Stockhausen soạn một ca khúc
“ Stimmung ” cho 6 giọng
vào năm 1968. Nhưng nghệ thuật hát lạ lùng này chưa được phát triển cho lắm.
Phải đợi tới năm 1974, khi dĩa hát “Chants mongols et bouriates” do hăng dĩa
Vogue phát hành, theo tài liệu thu thanh của GS Roberte Hamayon và do tôi
lựa chọn, rồi khi tôi đă khắc phục kỹ thuật này và bắt đầu dạy và phổ biến
khắp Âu châu, thế giới nhạc Tây phương bắt đầu khám phá hát đồng song thanh.
Đầu thập niên 80, hát đồng song thanh Tuva được phát hiện qua đại hội liên
hoan giọng hầu tại xứ Tuva và một vài ca sĩ Tuva giới thiệu cách hát này tại
Âu Mỹ. Lúc đầu tại Mông cổ và Tuva chỉ có vài chục ca sĩ hát kỹ thuật giọng
hầu khoomei. Bây giờ ( 2004 ) , có tới vài ngàn ca sĩ chuyên môn hát khoomei
tŕnh diễn khắp các nơi trên thế giới, nổi tiếng nhất của Mông cổ là các ca
sĩ Sundui, Tserendava, Ganbold, các nhóm Eschiglen, Altai Kanga, các ca sĩ
Genadi Tumat, Mongush Kandar, các nhóm Huun Huur Tu, Shu De, Tuva Ensemble,
v.v.
Năm 1995, tôi được mời làm chủ tịch cuộc thi hát giọng hầu tại thủ đô Kyzyl,
xứ Tuva, Tây bá lợi Á, với sự tham gia của trên 300 ca sĩ Tuva, và trên 100
thí sinh thuộc các quốc gia Mông cổ, Altai, Khakassia, Nhựt Bổn, Pháp, Ḥa
Lan, Đức, Canada, Hoa Kỳ. Tôi được mời làm hội viên danh dự của hội ca sĩ
hát khoomei của Tuva, hội viên danh dự của Trung tâm quốc tế giọng hầu
( International Center of Khoomei ). Từ hơn 10 năm nay, đề tài hát đồng song
thanh được một số sinh viên nghiên cứu dân tộc nhạc học chọn làm đề tài cho
thạc sĩ ( M.A. / Maitrise ), tiến sĩ ( P h.D. / Doctorat ). Tôi đă theo dơi và
hướng dẫn trên 10 luận án về đề tài này do các sinh viên thuộc các trường
đại học Pháp, Đức,Ḥa Lan, Ư, Na Uy, Nhật. Hát đồng song thanh có liên hệ
tới âm thanh học ( acoustics ), y học ( phoniatrics ), âm nhạc điều trị học
( music therapy ), tâm lư điều trị học ( psychotherapy ) và sáng tác
( composition ).
Trong lĩnh vực dạy ca hát, tôi đă dạy nhiều lớp master classes tại các
trường âm nhạc nổi tiếng thế giới như trựng âm nhạc Tshaikovsky ở Moscow
( Nga ), Paris ( Pháp ), trường âm nhạc hoàng gia Nhật ở Tokyo ( Nhật ), trường âm
nhạc hoàng gia ở Rotterdam ( Ḥa Lan ), hàn lâm nhạc viện ở Basel ( Thụy Sĩ ).
Một số đông các ca sĩ chuyên nghiệp Tây phương đă theo học với tôi để học
cách giữ hơi, hăm hơi, lấy hơi. Trong cách hát đồng song thanh, cách thở ra
hít vào hoàn toàn khác với kỹ thuật dạy về thở ở các trường âm nhạc.
Trong lĩnh vực trị bịnh, hát đồng song thanh giúp cho người nhút nhát bớt
nhút nhát, người bị cà lăm bớt cà lăm (nói lắp), mang lại tự tin cho người
tập loại hát này. Ngoài ra loại hát này giúp cho người học Yoga có hơi thở
dài hơn, cho người học khí công có nhiều điện lực hơn và cho người học Thiền
có nhiều nghị lực tập trung tư tưởng trong khi ngồi thiền.
Từ trên 30 năm nay, có hơn 7000 người theo học với tôi từ 60 quốc gia. Hiện
nay có khoảng 20 người học tṛ Tây phương theo học với tôi đă mở lớp dạy hát
đồng song thanh và bành trướng môn phái hát đồng song thanh do tôi đề xướng
tại Âu châu từ 1972.
Áp dụng vào trong nhạc Việt Nam: Về nhạc đương đại, tôi là người đầu tiên
dùng hát đồng song thanh trong nhạc điện thanh qua bài
“ Về Nguồn ” soạn chung
với cố nhạc sĩ Nguyễn văn Tường từ năm 1972 và tŕnh diễn lần đầu vào năm
1975. Sau đó Lê Tuấn Hùng tại Melbourne ( Úc ), rồi Hoàng Ngọc-Tuấn tại Sydney
( Úc ) có dùng hát đồng song thanh trong những sáng tác mới. Trong dân nhạc
Việt Nam, tôi có thu bài “ C̣ lả ” với kỹ thuật hát đồng song thanh trong dĩa
33 ṿng “ Music of Vietnam / Tran quang Hai & Hoang Mong Thuy ”, hăng Albatros
sản xuất, Milan, Ư, 1978.
|
( TTT ) : Giáo sư đang hoạt động trên hai lĩnh vực song song: “ âm nhạc
cổ truyền ” và “ âm nhạc đương đại”. Theo Giáo sư, hai hoạt động này đóng góp
thế nào cho âm nhạc hải ngoại nói riêng và âm nhạc Việt Nam nói chung ? Có
thể nào chúng ta vừa bảo tồn và giới thiệu di sản âm nhạc cổ truyền với thế
giới, vừa phát huy sáng tạo hay ứng dụng nó vào âm nhạc đương đại ? Có khó
khăn không ?
( TQH ): Với trên 3.000 buổi tŕnh diễn nhạc Việt Nam ở hải ngoại từ 1966
tới nay, tôi lúc đầu và từ 1978 cùng với Bạch Yến đă mang ḍng nhạc Việt qua
tiếng đàn tranh, đàn c̣, sinh tiền, muỗng, đàn môi và giọng hát đến với cộng
đồng quốc tế và Việt Nam để cho thấy sự phong phú của nhạc dân tộc. Những
buổi thuyết tŕnh tại các đại học đường hay hội thảo quốc tế giúp cho người
ngoại quốc hiểu thêm về sự đa dạng của các loại nhạc Việt và các sắc tộc
sống trên lănh thổ Việt Nam. Đó là h́nh thức giới thiệu nhạc Việt Nam với
thế giới.
Muốn hội nhập vào thế giới âm nhạc Tây phương, tôi đă sáng tác giai điệu mới
dựa trên các thang âm ngũ cung, chế biến tiết tấu mới lạ dựa trên kỹ thuật
đánh trống Việt Nam ( toong, tà- roong, táng, cắc, rắc, trắc, sậm, tịch, rù,
v.v. ), áp dụng vào kỹ thuật gơ muỗng ( với trên 10 kỹ thuật mới do tôi sáng
tạo ). Tôi đă dùng tiếng đàn tranh, đàn môi, muỗng, hát đồng song thanh trong
nhạc điện thanh ( electro-acoustical music ) do cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Tường và
tôi hợp tác với nhau trong nhạc phẩm “Về Nguồn” tŕnh bày lần đầu tiên vào
tháng 2. 1975 tại thành phố Champigny, Pháp. Tôi đă ứng dụng tiết tấu muỗng
vào nhạc tùy hứng tiết tấu để tŕnh diễn với trống zarb của Ba Tư ( 1972 ) với
free jazz đối thoại với saxo tenor ( 1982 ) ( dĩa hát 33 ṿng
“ SHAMAN ”, hăng
Didjeridou Records DJD 001, Paris, 1983, tôi cùng nhạc sĩ Misha Lobko song
tấu tùy hứng ), đàn môi, hát đồng song thanh với ống thổi Didjeridu của thổ
dân Úc ( 1997 ) ( dĩa CD “ Philip Peris / Didjeridu ”, hăng Les 5 Planètes,
Paris, 1997, tôi cùng Philip Peris tùy hứng qua hai nhạc phẩm trong CD này ).
Tôi đă ḥa đàn môi Việt với các loại đàn môi Na Uy, Anh quốc, Nhật Bản trong
một CD chuyên về đàn môi xuất bản tại Na Uy (2000). Tôi sử dụng kỹ thuật hát
đồng song thanh để đệm cách tụng kinh Mantra Tây Tạng ( 2004 ) tại đại hội
liên hoan nhạc quốc tế tại Genova, Ư. Tôi đă dùng âm thanh của đàn tranh,
đàn bầu, đàn c̣, muỗng, sinh tiền, đàn môi, hát đồng song thanh cho nhạc các
phim thương mại của các nhà viết nhạc phim Pháp như Vladimir Cosma, Philippe
Sarde, Maurice Jarre, Gabriel Yared, Jean Claude Petit từ 1970 tới nay.
Lúc đầu tiên, tôi gặp rất nhiều khó khăn v́ không biết phải làm thế nào để
cho thế giới biết tới nhạc Việt Nam. Với thời gian và học hỏi trường kỳ,
cũng như với tuổi đời và sự tham gia hàng năm tại các chương tŕnh dân nhạc
thế giới, tôi đă gọt giũa những ǵ thừa thăi, không ích lợi mà chỉ giữ lại
những tinh hoa sáng giá và đặc trưng của nhạc Việt. Kinh nghiệm được rút tỉa
qua hàng ngàn buổi tŕnh diễn nhạc Việt cho trẻ em Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ và Na
Uy đă giúp tôi làm một chương tŕnh hoàn hảo để chinh phục người ngoại quốc
qua các buổi giới thiệu nhạc cổ truyền Việt Nam.
( TTT ) : Xin Giáo Sư cho độc giả biết thêm về ḿnh và những hoạt động
cùng thành tựu trong lĩnh vực Giáo sư hoạt động.
( TQH ): Những hoạt động của tôi từ 40 năm qua được kê khai trên các
trang nhà ( www.tranquanghai.org ;
http://tranquanghai.phapviet.com ). Đứng về
mặt nghiên cứu , tôi là hội viên của nhiều hội nghiên cứu âm nhạc quốc tế
như Society for Ethnomusicology ( Hoa kỳ từ năm 1969 ), Asian Music Society
( Hoa kỳ từ năm 1980), International Council for Traditional Music ( Hoa kỳ từ
năm 1969 ), European Seminar for Ethnomusicology ( Đức từ năm 1983 ), Société Francaise d’Ethnomusicologie (sáng lập viên từ năm 1985 ), International
Society for Musicology ( Thụy Sĩ từ năm 1977 ), International Society of Sound
Archives ( Na Uy từ năm 1978 tới 1995 ). Tôi vào làm việc cho Trung tâm quốc
gia nghiên cứu khoa học (National Center for Scientific Research) của Pháp
từ năm 1968, chuyên về ngành dân tộc nhạc học thuộc nhóm nghiên cứu nhạc dân
tộc có trụ sở tại Musée de l’Homme ( Viện Bảo Tàng Con Người ) ớ Paris quận
16. Nơi đây tôi được đặc trách giao phó về nhạc Việt Nam và nhạc sắc tộc ở
Việt Nam. Sau đó tôi chuyên về nghiên cứu các kỹ thuật giọng hát trên thế
giới và trở thành chuyên gia về hát đồng song thanh có uy thế nhất trên thế
giới. Tôi được mời dạy tại trên 100 trường đại học ở khắp năm châu, tham gia
trên 50 hội nghị quốc tế về âm nhạc, viết cho tự điển âm nhạc New Grove
Dictionary of Music and Musicians ( ấn bản 1980 và 2002 ) và nhiều tự điển âm
nhạc khác ở Âu châu, viết 4 quyển sách về nhạc thế giới, có bài viết trong
12 quyển sách tập thể về nhạc truyền thống ( xuất bản tại Pháp, Hoa kỳ, Đức,
Lituania, Ư, Anh Quốc, Nhật, Việt Nam ) và trên 400 bài viết về nghiên cứu âm
nhạc bằng tiếng Pháp, Anh và Việt. Tôi đă thực hiện chung với một nhà nghiên
cứu dân tộc nhạc học gốc Thụy Sĩ tên là Hugo Zemp một cuốn phim 16 ly tựa là
“ Le chant des harmoniques” (the Song of Harmonics / Bài hát bồi âm vào năm
1989 ) đă gặt hái 4 giải thưởng quốc tế. Năm 2004, tôi đồng thực hiện với Luc
Souvet một DVD về hát đồng song thanh tựa là “ Le chant diphonique ” do Trung tâm quốc gia tài liệu sư phạm ( CNDP – Centre National de Documentation
Pédagogique) của đảo La Réunion, Pháp sản xuất. Ngoài ra tôi hướng dẫn trên
10 luận án về hát đồng song thanh của các sinh viên thuộc đại học Pháp, Đức,
Ư và Na Uy.
Về tŕnh diễn âm nhạc với tư cách nhạc sĩ, tôi đă tham gia trên 150 đại hội
liên hoan nhạc cổ truyền quốc tế, tŕnh diễn trên 3.000 buổi giới thiệu nhạc
Việt Nam tại 60 quốc gia cùng với Bạch Yến. Chúng tôi đă diễn trên 1.500
buổi cho học sinh các trường tiểu trung và đại học do các cơ quan chính phủ
các nước Na Uy ( Rikskonsertene ), Pháp ( Jeunesses Musicales de France JMF ),
Bỉ ( Jeunesses Musicales de Belgique JMB ), Thụy Sĩ ( Jeunesses Musicales
Suisses JMS ), Úc châu ( 25 chương tŕnh tại các tỉnh Melbourne, Sydney,
Brisbane, Perth ). Đối với cộng đồng người Việt hải ngoại, mỗi năm chúng tôi
dành 10 chương tŕnh giới thiệu nhạc dân tộc tại những nơi có người Việt cư
ngụ từ gần 30 năm qua.
Về sáng tác nhạc, tôi là hội viên của hội tác quyền Pháp ( SACEM – Société
des Auteurs, Compositeurs et Editeurs de la Musique ) từ năm 1980. Số lượng
bài hát đủ các loại (tân nhạc, nhạc cho đàn tranh, đàn môi, đàn bầu, hát
đồng song thanh, nhạc điện thanh, nhạc tùy hứng) tổng cộng trên 500 bài đă
được cầu chứng. Ngoài ra tôi c̣n là hội viên của hai cơ quan bảo vệ nghệ sĩ
tŕnh diễn của Pháp ( ADIDAM, và SPEDIDAM ).
Về mặt báo chí, tôi viết cho nhiều báo nghiên cứu nhạc dân tộc của nhiều xứ
trên thế giới. Ngoài ra tôi viết cho trên 30 tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại,
đặc biệt có nhiều bài đăng ở các trang nhà trên mạng lưới như
www.vietnhac.org ;
www.honque.com ;
www.talawas.org .
Về mặt tiểu sử, tôi là cố vấn quốc tế ( international adviser ) của hai hội
tiểu sử nổi tiếng nhất thế giới là WHO’S WHO của Hoa kỳ ( American
Biographical Institute ABI ) và WHO’S WHO của Anh Quốc ( International
Biographical Centre IBC ). Từ 25 năm nay, tôi đă đề nghị nhiều người Việt có
tiểu sử ở một trong 26 loại tự điển Who’s Who. Tiểu sử của tôi có trong 15
loại tự điển tiểu sử Who’s Who, quyển Vẻ Vang Dân Việt ( 1996 ) Trọng Minh,
quyển Fils et Filles du Việt Nam ( 1997 ) Trọng Minh, Tuyển Tập Nghệ Sĩ ( 1995 ) của Trường Kỳ. Tôi là nhạc sĩ Việt Nam chuyên nghiệp đàn cho nhạc các phim
của Pháp về nhạc có màu sắc Á châu có tên trong quyển Guide Du Show Business
từ 30 năm nay.
Về mặt các giải thưởng quốc tế, tôi đă thu thập trên 30 giải thưởng, đặc
biệt là những giải thưởng sau đây:
1967: Giải Vua Muỗng (King of Spoons) tại Cambridge Folk Music Festival
1983: Giải thưởng của Hàn lâm viện dĩa hát Charles Cros cho dĩa hát
“ Vietnam
/ Tran Quang Hai & Bach Yen ” ( hăng dĩa SM, Pháp )
1986: Huy chương vàng của Hàn lâm viện văn hóa Á châu, Pháp
1990: Giải thưởng ưu hạng của Đại hội liên hoan quốc tế về Phim nghiên cứu
tại Parnu, Estonia cho cuốn phim “ Le chant des harmoniques
” ( Bài hát bồi âm )
do tôi là đồng tác giả, diễn viên chánh và nhạc sĩ sáng tác nhạc cho phim
1990: Giải thưởng phim hay nhứt về dân tộc nhạc học của Hàn lâm viện khoa
hoc Estonia cho phim “ Le Chant des Harmoniques ”
1990: Giải thưởng về nghiên cứu khoa học của đại hội liên hoan quốc tế phim
nghiên cứu cho phim “ Le chant des harmoniques ”, Palaiseau, Pháp .
1991: Giải thưởng ưu hạng Northern Telecom của đại hội liên hoan quốc tế
phim khoa học của Québec cho phim “ Le chant des Harmoniques ”, Montréal,
Canada.
1991: Giải thưởng Van Laurens của British Association of the Voice và Ferens
Institute, Luân đôn, Anh quốc
1995: Giải thưởng đặc biệt về hát đồng song thanh, đại hội liên hoan quốc tế
hát đồng song thanh, Kyzyl, Tuva
1996: Huy chương thủy tinh ( Medal of Cristal ) của Trung Tâm Quốc gia nghiên
cứu khoa học, Pháp
1997: Giải thưởng của Hàn lâm viện dĩa hát Charles Cros cho CD Voices of the
World, Pháp .
1998: Huy chương công dân danh dự thành phố Limeil Brévannes, Pháp
2002: Bắc đẩu bội tinh ( Legion d’Honneur ) của Pháp
;
( TTT ) : Công việc bảo tồn, phát huy và sáng tạo âm nhạc cổ truyền
Việt Nam thật khó nhọc và lớn lao. Giáo sư có ai tiếp sức không? Giáo sư có
ước vọng ǵ trong tương lai ? Nếu có thể Giáo sư sẽ làm được ǵ cho nền âm
nhạc Việt Nam ?
( TQH ): Đối với nhạc cổ truyền Việt Nam, ở hải ngoại tôi không có ai
tiếp nối. Điều rất dễ hiểu, học nhạc không phải là đối tượng của đa số người
Việt di tản. Âm nhạc chỉ là thú tiêu khiểu hơn là cứu cánh trong cuộc đời.
Tôi nghĩ là sự phát huy nhạc cổ truyền Việt Nam phải từ trong xứ Việt Nam
chứ không thể từ bên ngoài đưa vào. Bổn phận của tôi chỉ là dọn chỗ, lót
đường để cho người ngoại quốc khám phá và t́m hiểu nhạc Việt thêm khi có dịp
viếng thăm đất nước Việt Nam. Mặt khác là mang lại cho những trẻ em sinh ra
và lớn lên ở hải ngoại những h́nh ảnh âm thanh của văn hóa Việt để các em
đừng quên cội nguồn. Sau đó khi các em có dịp quay về quê hương, sẽ không bị
bỡ ngỡ.
Ước vọng của tôi là một ngày nào đó tôi có dịp trở về quê hương với điều
kiện thuận tiện, tôi sẽ mang lại cho tất cả những trẻ em Việt Nam hay những
sinh viên âm nhạc những kinh nghiệm mà tôi đă thu thập ở hải ngoại, trao lại
gia tài âm nhạc mà tôi đă lĩnh hội, hấp thụ suốt cả cuộc đời cho dân tộc
Việt. Chỉ có ở Việt Nam là tôi hy vọng t́m được người thừa kế di sản âm nhạc
tôi để lại. Ngày đó chưa biết là lúc nào, nhưng tôi tin rằng sẽ có ngày đó
trước khi tôi vĩnh viễn ra đi .
|