Ở mỗi thời kỳ,
mỗi dân tộc sẽ phải cam chịu hay có một số phận xứng đáng với sự lựa chọn và
cách sống của họ.
Ngô Thế Vinh
Có lẽ do ảnh
huởng khí hậu cũng như thời tiết của mùa Xuân, và v́ - dường như - bữa đó, trong
không khí, có thoang thoảng chút hương vị Tết nên tôi uống (chắc) nhiều. Cao
hứng tôi cất tiếng ngợi khen một nhà văn thứ dữ, ông Vơ Phiến:
- Cái bài anh
viết về những bản thảo cũ của Nhất Linh, đăng trên Thế Kỷ 21 (số tháng 7 năm
2002) đọc hay quá xá. Sao anh minh mẫn, hóm hỉnh và trí nhớ vẫn c̣n tốt quá trời
quá đất như vậy - há?
Thỉnh thoảng
thăm hỏi và nói với nhau đôi lời chân thành và tử tế - kể cả vào lúc (có hơi)
quá chén như thế - vốn không phải là chuyện vẫn thường xẩy ra giữa hai người
Việt! Bởi vậy, tôi cứ ngỡ là ôngVơ Phiến sẽ cảm động chết luôn và sẽ mỉm cười (vô
cùng) sung sướng.
Tôi lầm. Ổng
không cười (cười gượng cũng không luôn); đă thế, c̣n hoá đăm chiêu rồi bỗng dưng
coi nghiêm và buồn - thấy rơ:
- Tui đọc
cuốn Xóm Cầu Mới của Nhất linh vài chục năm trước, nhiều đoạn bây giờ vẫn c̣n
nhớ như in. Nhưng cái đầu của ḿnh bây giờ lạ lắm, nó chỉ linh hoạt khi nghĩ tới
những chuyện xa xưa, và hay loay hoay t́m về dĩ văng, chớ không thiết tha ǵ đến
tương lai nữa.
Nghe rồi, tôi
cũng thấy buồn luôn, và cũng hoá đăm chiêu, đâu chừng nửa tháng. Ông Vơ Phiến,
dù lập gia đ́nh muộn chăng nữa, vẫn dư sức có một thằng con trai út - lóc nhóc
cỡ tuổi tôi. Tôi trẻ hơn ổng rất nhiều mà sao cái đầu cũng quyết liệt từ chối
không nghĩ tới tương lai nữa. Coi có ghê chớ không chớ? Mà đây không phải chỉ là
chuyện riêng của tôi và ông Vơ Phiến đâu nha. In tuồng như là cả dân tộc Việt
Nam - bất kể tuổi nào, bất kể đang sống nơi đâu - cũng đều như vậy tuốt!
Cầm thử bất
cứ một cuốn đặc san nào đó xuất bản ở hải ngoại mà xem. Khỏi cần coi kỹ, chỉ cần
đọc tựa của mấy bài viết không thôi là cũng đủ thấy ngậm ngùi, xót dạ và buồn
rầu hết biết: quê xưa - chốn cũ, thầy xưa - trường cũ, chiến trường xưa - đồng
đội cũ, người xưa - t́nh cũ, gịng sông xưa - con đ̣ cũ, xóm làng xưa - bè bạn
cũ
Và đó mới chỉ
là những nỗi buồn hạng nhẹ, của những người không nặng kư - chỉ tầm tầm cỡ
thường dân - những kẻ mà tâm sự có thể giải bầy trong những bài thơ nhỏ, hoặc
vài ba trang tùy bút. Những nhân vật quan trọng th́ họ viết nguyên cả một cuốn
hồi kư đàng hoàng.
Cuốn nào cũng
đều mang nặng cả trời tâm sự. Đôi khi, tâm sự của người này lại đụng chạm đến
tâm sự của người kia - hoặc của nhóm người kia - nên sinh ra tùm lum xung đột,
hiềm khích, oán thù, tranh chấp rất ồn ào và (thuờng khi) rất không cần thiết!
Đó là chưa kể
đến những bài khảo cứu công phu về chuyện xưa tích cũ (liên quan đến nhân vật
này, áng văn kia hay những lỗi lầm - trong quá khứ - của tôn giáo này hoặc tôn
giáo nọ), cùng với những gịng thơ văn hoài cổ đầy nhóc trong sách báo xuất bản
ở hải ngoại.
Một đám người
thua cuộc, nhà tan cửa nát, hớt ha hớt hải bỏ của chạy lấy người - thoát thân,
rồi nằm buồn rầu thoi thóp ở một góc trời xa lạ - và cứ ngoái trông về cố lư mà
thương nhớ măi bến nước xưa, cây cầu cũ, hay cứ tiếc nuối hoài những ngày tháng
an b́nh (hoặc vàng son) đă mất th́ (tưởng) cũng là chuyện b́nh thường thôi chớ?
Có ǵ lạ đâu mà kiếm chuyện (cà khịa) nẫy giờ vậy, cha nội?
Ư Trời, đừng
nói vậy chớ! Như vậy là gieo tiếng ác và mang tội chết (mẹ) à nha. Tui thiệt
t́nh không (bao giờ) dám kiếm chuyện đâm hơi hay châm chọc ǵ ai. Nói t́nh ngay,
chả qua v́ sợ dĩ văng của chúng ta quá nặng nề khiến mọi người hoá lề mề (khi
xoay trở với hiện tại) và ái ngại khi nghĩ đến tương lai ( nếu không phải là
chuyện tương lai của riêng ḿnh) nên tôi thấy có hơi kỳ (và bàn ra ) chút đỉnh -
vậy thôi.
|
|
Hơn nữa - như
đă thưa - cái tâm cảm nước c̣n cau mặt với tang thương, không phải chỉ t́m thấy
nơi những kẻ sống ở nước ngoài hay những nguời bại trận. Nhà thơ Nguyễn Duy (
một chiến sĩ và thi sĩ nổi tiếng của phe thắng trận) ghé về thăm quê - sau hơn
một thập niên, kể từ ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng - cũng đă không nén
được bùi ngùi:
Cha ta cầm cuốc trên tay
nhà ta xơ xác hơn ngày xa
xưa
lưng c̣ng bạc
nắng thâm mưa
bụng nhăn lép
kẹp như chưa có ǵ
(Thanh Hóa - cuối năm Th́n 1988)
Bây giờ là
đầu năm Thân, thêm mười sáu năm nữa đă trôi qua. Dân quê Việt
Nam vẫn cứ
sống trong những căn nhà xơ xác hơn ngày xa xưa, và vẫn tiếp tục cầm cuốc trên
tay- như nông dân của Thời Trung Cổ. Những kẻ sinh sau đẻ muộn, không c̣n đất để
cuốc, dắt díu nhau rời bỏ làng quê, lần vào thành phố kiếm ăn.
Họ đi xin
(nếu không có máu hay có thân h́nh bán được), hoặc bán sức lao động - dưới mọi
h́nh thức - để sống qua ngày. Giản dị nhất là trở thành cửu vạn. Khỏi phải làm
đơn, đỡ tốn tiền c̣, không cần hộ khẩu, và cũng chả lo đến lư lịch - kể cả loại
lư lịch trích ngang - v́ dân cửu vạn chỉ làø một thứ một thứ phu phen (xuống
cấp) của thời đại mới. Họ là những kẻ sống bên lề, lề đường, của xă hội cộng sản
Việt Nam.
Họ đứng ngồi
chờ trực suốt ngày (và suốt đêm) để đợi người ới đi làm. Họ sẵn sàng làm tất cả
việc nặng nhọc và bẩn thỉu: khuân vác, dọn nhà, dọn vườn, móc cống, vét rănh,
thông cầu... Và tiền công th́ hoàn toàn tùy thuộc vào ḷng hảo tâm của người đối
diện!
Giảng Vơ, 12
giờ đêm. Đám người lao động ngoại tỉnh, kẻ đứng người nằm la liệt trên suốt hơn
1 km đoạn đường từ đầu ngă tư Cát Linh - Giảng Vơ - Đê La Thành. Thôi th́ đủ quê
từ Hà Tây, Thái B́nh, Nam Định nhưng đông hơn cả vẫn là Thanh Hoá
Trung b́nh
một ngày họ kiếm được từ 15-20 ngàn đồng, rất vất vả. Thông thường mỗi buổi sáng
họ thức dậy từ 6h, quấn vải mưa, chăn chiếu dúi vào một góc nào đó để tản ra
'đứng đường' chờ việc. Trưa và tối th́ tạt vào những hàng cơm bụi với mỗi xuất
ăn giá khoảng 2.000 đồng, thậm chí những hôm không có ai thuê, đành nhịn.
(Quang Hiệu
và Vương Linh, Cửu Vạn Đêm, Lao Động 11/8/2002).
Dễ có đến
chừng nửa dân số Việt Nam đang sống (dở) và chết (dở) - như thế - trong những
căn nhà xơ xác ở thôn quê, hay trên những vỉa hè ở phố thị. Với họ, khi bàn đến
tương lai, có lẽ tất cả sẽ đều nghĩ ngay đến một nắmm xôi - cho buổi sáng sớm
mai!
Phần dân
chúng c̣n lại ở Việt Nam th́ hẳn là phải có một mức sống khả kham (hoặc khá giả)
hơn như vậy. Dù ở thôn quê hay thành thị họ cũng có đủ cơm ăn áo mặc, có nhà cửa
(hay cơ ngơi) tử tế. Dự phóng về tương lai của họ, đối với không ít kẻ, đă vượt
qua những nhu cầu vật chất cơ bản (như đồng hồ hay xe đạp ) từ lâu. Với những
người này - cũng như phần lớn những đồng bào ăn nên làm ra của họ ở nước ngoài -
khi nói đến chuyện mai sau, họ có thể nghĩ đến tuốt cái sân sau (đang trồng cây
ăn trái) hoặc mảnh bằng trước mặt của đứa con vừa ( hay sắp) vào đại học. Không
ít kẻ c̣n lo xa cả đến một chỗ để nằm,
sau khi tắt thở !
Chung cuộc
-xem ra - dường như chỉ có những người đang nắm quyền ở Việt Nam là có khả năng
thích ứng với thực tại, và có viễn kiến về tương lai. Sau khi mở cửa với thế
giới bên ngoài, chấp nhận luật chơi của kinh tế thị trường, đến khoá họp trung
ương đảng kỳ V - từ 18 tháng 2 đến ngày 2 tháng 3 năm 2002 - CSVN đă chính thức
cho phép đảng viên được
|
|
phép làm kinh doanh tư nhân.
Quyết định
lột xác biến (cái rẹt) từ cộng sản sang tư sản của họ, tiếc thay, đă không được
dân Việt hoan nghênh hayï khích lệ. Không những thế, một công dân hiện đang sống
trong nước đă đưa ra một nhận định (vô cùng) khinh thị - như sau:
Như thế là
mọi chuyện bất chính, bất luơng, bất hợp pháp nay trở thành danh chính ngôn
thuận hết. Cứ việc nhân danh Đảng mà phù phép biến hoá của công thành của riêng,
xí nghiệp quốc doanh thành xí nghiệp tư nhân, của tham nhũng hối lộ thành bổng
lộc hợp pháp. Một tuyệt chiêu lưu manh vô địch (TTN, Tư Bản Đỏ, Đàn Chim Việt,
Sept. 2002:31).
Tuyệt chiêu này cũng không được tán thưởng bởi những
người Việt khác, dù họ đang sống ở (tận) nước ngoài:
Đừng để bị
huyền hoặc v́ danh xưng "tư sản đỏ". Tư sản không có màu sắc, không có tư sản đỏ
và tư sản xanh, chỉ có tư sản kinh doanh trong một nước dân chủ pháp trị lành
mạnh và tư sản lưu manh trong một chế độ độc tài tùy tiện. Tư sản đỏ tại Trung
Quốc và Việt Nam hiện nay là bọn tư sản lưu manh. Chúng không kinh doanh, chúng
bóp nghẹt kinh doanh và làm giàu bằng hối mại quyền thế. Chúng không làm kinh tế
thị trường, chúng bóp nghẹt thị trường và làm giàu bằng đặc quyền đặc lợi. Chúng
không mưu lợi cho đất nước, chúng cướp đoạt tài nguyên và tiềm năng đất nước để
mưu lợi cho riêng chúng. Chúng không cần tài năng dù chúng đứng đầu những công
ty lớn, v́ chúng không phải cạnh tranh với ai cả. Chúng không cởi mở và tiến bộ
dù chúng đi xe hơi sang trọng và du lịch khắp thế giới. Chúng càng không phải là
một chặng đường trong cuộc chuyển hóa về dân chủ, trái lại chúng chống lại cuộc
đấu tranh cho dân chủ để giữ nguyên đặc quyền đặc lợi. (Nguyễn Gia Kiểng, Ai Cầm
Quyền, Thông Luận, Dec. 2002:06).
Khi mà gần
nửa dân tộc chỉ nghĩ được tới nắm xôi, nửa c̣n lại cũng không mấy kẻ nghĩ xa
hơn tô phở - hay bún ḅ hoặc hủ tíu ǵ đó - và những người lănh đạo đất nước
lại là những kẻ lưu manh vô địch, chỉ chăm chăm cướp đoạt tài nguyên và tiềm
năng đất nước để chỉ mưu lợi riêng cho chúng th́ chuyện non sông (gấm vóc) kể
như là rồi - chớ c̣n (khỉ) gỉ nữa?
Vậy mà vẫn
c̣n có một nhúm người - có tên là Nhóm Bạn Cửu Long, http://mekongriver.org -
cứ băn khoăn măi về sinh mệnh của một ḍng sông. Theo họ: Cửu Long Cạn Ḍng
(là) Biển Đông Dậy Sóng. Đây cũng là tên tác phẩm mới nhất của nhà văn Ngô Thế
Vinh, đă được nhà Văn Nghệ (Hoa Kỳ) tái bản hồi đầu năm 2002.
Khi trả lời
phỏng vấn của Tập San Hợp Lưu (số 56, tháng 12/2000 & 1 năm 2001 - do Nguyễn
Mạnh Trinh thực hiện) Ngô Thế Vinh đă bầy tỏ sự quan ngại về t́nh trạng toàn
vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long có nguy cơ bị tràn ngập bởi nước mặn, với hậu quả
là vĩnh viễn chẳng c̣n đâu một nền Văn Minh Miệt Vườn và cũng không c̣n đâu vựa
lúa để nuôi sống ngót 100 triệu dân của cả nước.
Nếu 'cả nuớc
- từ trong ra ngoài - chỉ quay đầu nh́n về dĩ văng (để nuối tiếc hay hậm hực)
hoặc chỉ cúi đầu (v́ bận kiếm ăn hay v́ sợ bị ở tù), và trọn gói non sông mang
giao cho những kẻ lưu manh - những kẻ đủ nhẫn tâm để tháo cạn nước của một gịng
sông và đốt cháy nguyên một khu rừng, khi cần vài con cá nướng trui cho bữa ăn
chiều trong gia đ́nh họ - th́ hiểm họa đang đe doạ ḍng sinh mệnh của cả dân tộc
Việt, chứ đâu có riêng chi một ḍng sông.
Nói chuyện
tương lai, giữa những mùa xuân ly loạn, đă không có ǵ vui mà (dám) c̣n làm cho
không ít người buồn. Nếu lỡ như vậy th́ tôi mong được sự bao dung và độ lượng
của toàn thể đồng bào trong ba ngày Tết. Nếu không có Tết, và không có rượu, bà
nội mẹ tui cũng không dám làm mích ḷng - cùng lúc - cả đống người như thế!
|