Đây là một cuộn phim mới nhất trong số hàng trăm cuộn phim đă từng kể lại chuyện
một tội nhân nổi tiếng lẫy lừng trong nhân loại suốt hơn 2 ngàn năm qua, đă bị
viên thái thú La Mă Ponce Pilate xử tội đóng đinh câu rút trên cây thập tự giá.
Ngài tên là Jesus Christ, gốc Do Thái, qua đời vào ngày 7. 4. 30 sau công nguyên.
Cái chết của chúa Jésus đă diễn ra đau đớn bởi những tra tấn nhục h́nh dă man,
lây lất kéo dài theo từng hơi thở, trên cây thập tự giá, đă gây xúc động vô biên
trong ḷng của mọi người, khiến cho sau đó một tôn giáo mới đă được ra đời lấy
tên ngài làm danh hiệu.
Từ đó đến nay bao nhiêu sự thật của lịch sử đă bị chôn vùi sâu kín dưới lớp bụi
dầy đặc của thời gian. Mặc dù sau đó chúa Jésus đă hồi sinh, nhưng với ḷng tha
thứ mọi tội lỗi cho con người, ngài đă không tiết lộ một bí mật nào về chuyện ai
đích thực là kẻ sát nhân. Dù vậy, sử sách và các từng lớp thế hệ sau, vẫn không
chịu buông tha những kẻ thời đó đă mượn tay Ponce Pilato để giết chúa. Vấn đề
này chính là nguyên nhân đă tạo nên mối hận thù đẫm máu giữa hai tôn giáo Du Già
(Judaisme) với Thiên Chúa Giáo từ thuở xa xưa.
Nhưng hơn 2 ngàn năm sau, dường như các nhà thần học, các chuyên gia nghiên cứu
về tôn giáo, các sử gia, các nhà lănh đạo tinh thần TCG đă không c̣n muốn khơi
lại đống tro tàn của dĩ văng xa xôi ấy để làm ǵ. V́ thế đến ngày 28. 10. 1965,
đức giáo hoàng Jean XXIII đă khai mạc hội đồng Vatican II công bố hiến chương
Nostra Aetate, tạo nên một giai đoạn chuyển tiếp, để 20 năm sau mở đường cho đức
giáo hoàng đương nhiệm Jean-Paul II bước chân lần đầu tiên đến một giáo đường Do
Thái (synagogue) , viếng thăm thân thiện vị tu sĩ Du Già ở La Mă (Rabbin de
Rome), trước khi ngỏ lời chào mừng năm 2000, với lời tuyên bố hóa giải hận thù
với các giới tín đồ Du già Do Thái giáo.
Dù vậy, những sự kiện lịch sử chứng minh người Do Thái đă giết chúa vẫn c̣n nằm
trơ trong lịch sử và đă bám chặt trong đầu của các giới tín đồ TCG khắp thế giới,
không sao gột rứa sạch được. Và cái tên kẻ phản thầy Judas đă trở thành một biểu
tượng cho sự phản phúc đê hèn, đồng thời tạo nên thành ngữ nụ hôn của Judas (Le
baiser de Judas) lưu truyền hết thế hệ nọ đến thế hệ kia trên cửa miệng của mọi
người.
Bất ngờ khoảng đầu tháng 3. 2004, quần chúng khắp nơi trên thế giới bỗng được
báo chí và các phương tiện truyền thông hiện đại loan tin sôi nổi về cuộn phim
THE PASSION OF CHRIST ( sự đau khổ của chúa Jésus trên cây thập tự giá) của Mel
Gibson, do tài tử Jim Caviezel, một hóa thân của chúa Jésus, thay thế chúa vác
cây thập tự giá nặng đến 75 ki lô ( ấy là chỉ mới có phân nửa sức nặng thật của
cây thập tự giá mà ngày xưa đấùng Jesus Christ đă phải khiêng đi trên suốt quăng
đường dài!), dưới làn roi da quất túi bụi, liên tiếp của quân La Mă. Trong khi
đó chung quanh chúa Jésus bu đầy quần chúng Do Thái đua nhau xúm xít sỉ vả và
khạc nhổ nước bọt lẫn đờm dăi lên mặt và đầy đầu cổ ngài , ra điều khinh tởm!...
Tuy Mel Gibson không phải là một sử gia, nhưng nhà đạo diễn nổi danh này đă đủ
can đảm bước lên trên mọi dư luận chống đối của dân Du Già Do Thái, để dơng dạc
nêu lên một câu hỏi nghiêm trọng, then chốt nhất của vấn đề : Ai đă giết chúa
Jésus?.
Theo tôi, những ai đă xem phim này chắc hẳn đều đă nhận được câu trả lời khẳng định
chắc nịch của Mel Gibson là: Chính người Do Thái!. Dân Do Thái là giống dân giết
chúa! (peuple juif, peuple déicide!).
Câu trả lời ấy, thực ra cũng chẳmg phải mới mẻ ǵ. Lịch sử đẫm máu của hàng
triệu tín đồ TCG đă bị đạo Du Già Do Thái giáo (Judaisme) thảm sát ngay khi chúa
mới qua đời, và đă kéo dài ṛng ră suốt 2 thế kỷ sau, măi cho đến khi hoàng đế
La Mă Constantin đệ Nhất (274-337) cải đạo theo Ki Tô giáo, và ban hành sắc lệnh
thiết lập Ki Tô Giáo như một tôn giáo chính thức, th́ tôn giáo này mới thoát
khỏi thảm họa tru diệt bởi bàn tay độc ác dă man của giống dân Do Thái theo đạo
Du Già. Giống dân này vốn đă thấm nhiễm sâu đậm tư tưởng của các bộ thánh kinh
Torah (Cựu Ước Kinh), Talmuds, Cantique des Cantiques, với luật báo phục
(Talion) ăn miếng trả miếng đầy vẻ khát máu, cực kỳ gian ác, dâm loạn và kỳ thị
chủng tộc lẫn kỳ thị tôn giáo. Có lẽ chính v́ lư do này mà về sau bộ Tân Ước
Kinh ( Nouveau Testament) của TCG La Mă đă ra đời...
Nay, nhân bộ phim giá trị THE PASSION OF CHRIST hiện đang chiếu luân lưu khắp
nơi trên thế giới, với số khán giả kỷ lục vô địch từ xưa đến nay, chúng tôi muốn
dùng bài này để cống hiến thêm cho bạn đọc đôi điều hiểu biết đặc biệt về đạo Du
Già của dân Do Thái, vốn là một trong số rất ít tôn giáo lâu đời nhất của nhân
loại, và đă có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất trên khắp thế giới. Nên biết thánh
kinh của đạo Du Già Do Thái c̣n là nguồn gốc của thánh kinh TCG La Mă...
Nhưng quan trọng hơn hết là bạn đọc bài này để tự suy nghiệm lấy về cuộc chiến
tranh tàn khốc, đẫm máu, đă diễn ra dai dẳng nhất thế kỷ XX, giữa dân Do Thái
với dân Palestine. Cuộc chiến tranh này đích thực là một cuộc chiến tranh tôn
giáo ( Du Già Hồi giáo ) lồng trong cái vỏ chính trị đă diễn ra từ năm 1948, nghĩa
là ngay sau khi dân Do Thái vừa lập quốc cho tận đến ngày hôm nay. Hai bên đă
giết cả đàn bà, trẻ con vô tội, và trong tương lai sẽ c̣n giết lẫn nhau dài dài...
Ngoài ra, cuộc chiến của dân Do Thái trên mảnh đất Israel c̣n là nguyên nhân sâu
xa đă tạo nên ḷ thuốc súng ở Trung Đông, đẩy siêu cường HK vào ṿng thù hận với
các sắc dân Hồi giáo khắp nơi trên thế giới. Vậy mục tiêu tối hậu của dân Do
Thái là ǵ?
Đọc những đoạn trích dẫn thánh kinh Du Già của người Do Thái sau đây bạn sẽ có
thể tự t́m ra được câu trả lời đích xác nhất cho ḿnh!
DO THÁI GIẾT CHÚA!
Hàng ngàn năm nay giới tín đồ TCG khắp thế giới tiếp tục tố cáo dân Do Thái là
một bọn phản trắc, ác hiểm, đă giết chúa Jésus. Trong khi đó, ngược lại, vẫn có
một số tác giả kín đáo bào chữa cho Do Thái, bằng cách đánh lạc hướng, kết tội
quân La Mă tàn bạo đă giết Jésus Christ.
Ngày nay, chúng ta - các bạn và tôi - đều ra đời sau thời kỳ của Chúa Jésus đến
hơn 2000 năm. Vậy chúng ta không thể hùa theo phe này, phe nọ, hoặc phát kiến
không dựa trên một tài liệu chính xác nào. Nhất là vụ án có tính cách lịch sử
tôn giáo quan trọng này lại không có một dấu vết bằng chứng cụ thể nào, ngoài sự
cáo buộc Jésus đă tự xưng là roi des Juifs (vua Do Thái). Nhưng, ngay lúc bấy
giờ Jésus đă minh thị vương quốc của ngài không phải là thứ vương quốc tầm
thường ở trần gian. Nếu căn cứ vào kinh Phúc Âm, th́ kinh này đă ra đời sau thời
kỳ của Chúa rất xa, và đầy rẫy nhận định có vẻ thiên lệch, bênh vực La Mă một
cách gián tiếp, để tăng cường thêm ḷng thù hận đối với người Do Thái. Trong đó
có 4 chuyện kể của các nhà soạn Phúc Âm lại hoàn toàn không giống nhau. Thánh
Mathieu là người độc nhất đă tiết lộ sự tự tử của Judas, thánh Luc là người duy
nhất gợi chuyện chúa Jésus đă hứa cho một tên ăn trộm được lên Thiên Đàng, thánh
Marc là người độc nhất kể chuyện một tông đồ trẻ tuổi trốn chạy trong lúc trần
truồng ( có thể chính đương sự?!), và thánh Jean là người kể chuyện một tên lính
La Mă đâm một nhát giáo...
Nhưng các sự kiện trái ngược đó không hề mâu thuẫn nhau. Nên biết: Bốn chuyện kể
khác nhau đôi khi có giá trị chắc chắn hơn một chuyện độc nhất mà phán xét sai
lầm vĩnh viễn. Ngoài ra, thảm cảnh ở Golgotha c̣n đẻ thêm ra nhiều chuyện khác
rất chủ quan.
Trước hết , ta hăy đặt vấn đề:Ai đă bắt Jésus?
Trả lời câu hỏi này, Luc (22, 47) xác quyết: một toán quân. Mathieu (26, 47) nói
rơ hơn: Một toán quân mang kiếm và gậy gộc, do các đại đạo sĩ Do Thái và các kỳ
lăo phái tới. Tiếp theo, Marc bổ túc: bọn kư lục Do Thái(scribes) của các kỳ
lăo. Riêng Jean (18, 2) kể rơ hơn: Một lực lượng chính qui với bọn dân vệ do bọn
đại đạo sĩ và bọn Do Thái cuồng đạo (pharisiens) cung cấp.
Nhưng, lực lượng binh sĩ ấy là một đơn vị quân đội La Mă hay bọn dân vệ Do Thái
gác đền?
Không ai biết! Trong các thành phần can dự: bọn kư lục, bọn kỳ lăo, hay bọn Do
Thái cuồng đạo, kẻ nào đă chủ động bắt Jésus? Giả thuyết có vẻ hợp lư nhất là
toàn ban hội tề Do Thái cùng phối hợp hành động với quân La Mă để bắt Jésus.
Về thủ tục bắt giam và tra tấn cũng không ai biết rơ.Thậm chí không ai biết tí
ǵ về vai tṛ của vua Do Thái Hérode Antipas, vai tṛ của đại đạo sĩ Caiphe, của
Sanhédrin (hội đồng kỳ lăo) và viên Thái Thú Pontius Pilatus... Sự thật về cái
chết của chúa Jésus, chẳng những thiếu sự kiện chính xác, lại c̣n bị chôn vùi
dưới lớp bụi thời gian lâu dài hàng mấy ngàn năm, bây giờ muốn khôi phục sự thật
chắc chắn phải nhờ đến khoa khảo cổ học. Tuy nhiên, với những dẫn chứng đă nêu
trên, thiết tưởng, chúng ta cũng tạm thời nhận ra được một cách tương đối chính
xác trách nhiệm nào thuộc về người Do Thái, trách nhiệm nào thuộc về phần La Mă.
Thời đó, nước Do Thái đang bị La Mă cai trị, nên những kẻ thù đồng chủng, đồng
đạo của chúa Jésus không thể tự tay giết ngài, nên đă thực hiện thủ đoạn thâm
độc, gian ác là mượn bàn tay của Pontius Pilatus, và luật La Mă để giết chúa
Jésus, ghi một mối thù đẫm máu, truyền kiếp giữa Du Già giáo và TCG.
DO THÁI BÔI NHỌ ĐỨC BÀ MARIE
Ngoài tội giết Chúa cách nay hơn 2000 năm, cho đến tận ngày nay dân Do Thái vẫn
không bao giờ chịu chấp nhận Jésus Christ là Chúa của họ. Suốt chiều dài lịch sử
TC giáo, ta thấy chẳng những người Do Thái đă bêu riếu chúa Jésus là loại con
hoang, họ lại c̣n tung ra những luận điệu tuyên truyền vu khống, nhằm bôi bẩn cá
nhân và vai tṛ của đức bà Marie trong hệ thống tín ngưỡng của TCG.
Như mọi người đều biết: TCG độc thần, nhưng thờ tới 3 ngôi, nói cách khác cho dễ
hiểu là trong một thượng đế có 3 người: Cha, Con và Thánh Thần (Saint-Esprit)
(theo hội đồng giám mục Nicée năm 325 và Constantinople năm 381). Tại sao các
hàng giáo phẩm lănh đạo tư tưởng TCG lại phải thêm ngôi thánh Thần vào , trong
khi ai cũng thấy chỉ cần 2 ngôi Cha và Con cũng đă quá đủ rồi! Allah của Hồi
giáo, và Yahweh của Do Thái chỉ độc một người th́ sao?
Sở dĩ như vậy, v́ các nhà thần học TCG muốn ngăn chận sự tiếp xúc quá gần gũi,
trực tiếp giữa Cha và Mẹ của đứa con, để ngăn ngừa tín đồ nghĩ đến sự giao hợp
giữa Chúa Cha và Đức Bà Marie.
Nhưng sự cải thiện có tính cách tinh tế, trí thức ấy đă không thuyết phục được
đại đa số quần chúng tín đồ b́nh dân. Người ta vẫn luôn luôn tỏ ra khoái có sự
hiện diện của một phụ nữ trong 3 ngôi tín ngưỡng. Ngay từ thế kỷ đầu của công
nguyên này, người Hy Lạp đă hoan hỉ tôn thờ Marie, như đức Mẹ của chúa Jésus.
Tại Éphèse, một thành phố Hy Lạp, trong vùng Tiểu Á, có đền thờ Artémis, nổi
tiếng là một trong 7 kỳ quan của thế giới. Nơi đây, đức bà Marie đă được hoán
vị, thay thế vai tṛ của Artémis, đồng thời hoán vị luôn cả mẫu thần Cybèle
trong vùng . Đến thế kỷ VII sau TC, giáo chủ Mahomet của Hồi giáo cũng c̣n nhắc
đến vai tṛ của đức bà Marie trong kinh Coran.
Ngược lại, riêng người Do Thái, v́ đố kỵ và thù hận, không bao giờ chấp nhận sự
hiện diện của đức bà Marie trong hệ thống 3 ngôi của TCG. Đây ta hăy nghe, nhà
nghiên cứu tôn giáo, nhà thần học nổi tiếng của Pháp, Jean Soler, thạc sĩ văn
chương, đă cộng tác với Élie Barnavi trong tác phẩm L Histoire Universelle des
Juifs, tường thuật về sự bêu riếu đức bà Marie của người Do Thái:
Trong những thế kỷ đầu công nguyên này, để trả thù TCG, người Do Thái đă đánh
tráo chuyện đức mẹ đồng trinh hoài thai chúa Jésus bằng một chuyện có tính cách
bịa tạc, nhằm bôi nhọ bà Marie, coi bà như một con điếm (Marie est qualifiée de
prostituée). Nên biết: Cách phản tuyên truyền thông dụng và dễ nhất là cứ lật
ngược lại sự thật, đổi trắng thay đen hoàn toàn!
Mặt khác, kinh Talmuds cổ c̣n kể chuyện chúa Jésus vốn là kết quả của một cuộc
ngoại t́nh. (Những ấn bản mới sau này, cũng như những ấn bản thời trung cổ đă bị
thiêu hủy, đều loại bỏ đoạn ấy). Có lẽ nhắm mục đích chống đỡ sự cáo giác đầy ác
ư này của Do Thái, các nhà thần học TCG đă nêu lên biện thuyết cho rằng bà Marie
đă hoài thai khi bà đang có kinh nguyệt (trong kinh thánh viết: nida)...Đây có
lẽ là lối giải thích được coi như ổn thỏa nhất trong thời kỳ 2000 năm trước, v́
lúc bấy giờ trí óc con người c̣n tối tăm mù mịt, chưa ai biết ǵ về nguyên nhân
sinh ra chuyện có tháng của người đàn bà.
Cáo buộc bà Marie ngoại t́nh như thế, người Do Thái c̣n có dă tâm muốn bà Marie
bị xử tử chiếu luật Moise, đồng thời người đàn ông nào đă giao hợp với bà trong
lúc bà đang có tháng cũng không thoát khỏi mất mạng, v́ tội đă giao hợp với một
người đàn bà đang trong thời kỳ ô uế. Nên biết: Theo luật thực phẩm của Do Thái,
máu huyết là một điều nghiêm trọng chính yếu nhất. (Ngược lại, việc tắm máu các
giống ngoại chủng th́...hoan nghinh!).
Riêng cá nhân chúa Jésus, tuy kinh Talmuds và văn hóa Do Thái không hài đích
danh, nhưng đă ám chỉ thẳng là le bâtard, fils de la nida (thằng con hoang, con
của con điếm ).
[ Theo Jésus raconté par les Juifs, những văn bản từ thế kỷ II đến thế kỷ X, do
Jean-Pierre Osier dịch từ tiếng Hébreu, Berg Inter., 1999, các trg 53 và 140 ].
Sự vu khống , nhục mạ này, các giới tín đồ Hồi giáo thuộc thế hệ đầu tiên, trong
thời kỳ đó, ai cũng biết. V́ thế, kinh Coran đă kể lại chuyện này và trách người
Do Thái đă tuyên truyền, hạ nhục bà Marie bằng một sự vu khống ghê khiếp (IV,
156)... .
Tóm lại, người Do Thái đă cực lực chống lại thuyết sinh sản vô tính (asexuée)
của chúa Jésus, kể cả chuyện chúa Jésus ra đời do khả năng siêu dục tính
(hyper-sexualisée), để lật tẩy tà thuyết của TCG.
Trước sự tấn công ác liệt ấy của Do Thái vào nhược điểm của chủ thuyết, các nhà
thần học TCG đă cố gắng t́m mọi cách bảo vệ và làm nổi bật lên đặc tính trinh
trắng của thánh nữ đồng trinh Marie, đồng thời nhấn mạnh thêm Đức Bà Marie luôn
luôn và vĩnh viễn trinh trắng...
Muốn như thế, theo sự thuận lư thông thường, tất người ta phải xóa sạch mọi dấu
vết ái ân, nhục dục của ông già Joseph với bà Marie. Nhưng chẳng dè, trong 2
chương Mt 1,6,16; và Lc, 31, kinh Phúc Âm, người ta lại thấy ghi rành rành bảng
hệ phả gia tộc của ông Joseph. (song không đả động ǵ đến bà Marie). Như vậy,
hiển nhiên kinh Phúc Âm muốn chứng minh cho các giới tín đồ TCG biết chính ông
Joseph là người cha ruột thịt đă tạo nên Jésus. Bởi v́ Joseph vốn là hậu duệ của
David. Vậy, Jésus là con của Joseph tất nhiên cũng thuộc ḍng dơi của David. Đó
là yếu tố quan yếu nhất đối với cộng đồng dân tộc Do Thái, để cho Jésus được
xưng danh là Messie (đấng cứu thế), một Messie đă được Thiên Chúa chính thức xức
dầu thừa nhận đàng hoàng!...
Trước vấn nạn gay go, rắc rối này, nhiều người đă không khỏi ngạc nhiên nêu lên
một lô câu hỏi : Tại sao các nhà thần học TCG lại cứ khăng khăng không chịu chấp
nhận sự thật: Jésus là con của ông Joseph và bà Marie, một cặp vợ chồng bằng
xương bằng thịt hẳn hoi ? Và : Tại sao lại phải ngoan cố t́m đủ mọi cách tách
rời cho kỳ được người chồng phàm tục là ông Joseph với bà Marie, để cứ gán ghép
bừa bà Marie vào với một người chồng không tưởng là ông Thượng Đế? Tại sao lại
c̣n dùng một thứ ngoại chất (ectoplasma) là Saint-Esprit để nhét vào giữa đôi vợ
chồng huyễn hoặc một hữu h́nh hiện thực, một vô h́nh không tưởng này ?
Phải chăng các nhà tôn giáo và thần học TCG muốn chứng minh: Jésus là con trời,
một đấng siêu nhân, không phải là kết tinh của một hành động dâm t́nh, để mê
hoặc quần chúng tín đồ c̣n ngu muội?
Chỉ v́ chút ư tưởng thần thánh hóa đó mà các nhà tôn giáo và thần học TCG đă nỡ
tàn nhẫn truất mất quyền làm chồng của ông Joseph, và ngang nhiên chia rẽ t́nh
chồng vợ giữa ông Joeph với bà Marie. Mặc dù ông Thượng Đế vô h́nh, vô tướng nào
đó chỉ được gán ghép xuông trên danh nghĩa với bà Marie, nhưng như thế cũng đă
đủ làm cho bà vướng tội song hôn , hay lang chạ ngoại t́nh, mất tính cách thuần
túy trinh khiết, trong trắng rồi c̣n ǵ. Vậy, chẳng trách sao người Do Thái đă
bêu riếu bà Marie quá đáng.Tội nghiệp! Người chết làm sao trỗi dậy để nói lên
tiếng nói của ḿnh?!
Bằng cách cưỡng ép như thế, các nhà thần học TCG c̣n vô t́nh làm mất hẳn tính
logique và thực chất thuần túy thiên nhiên của bà Marie. Cuối cùng, giáo hội TCG
La Mă càng thêm lúng túng gỡ rối bằng cách xác nhận thêm rằng mẹ của bà Marie
cũng đă hoài thai bà Marie ngoài mọi động tác t́nh dục, không giao hợp với đàn
ông (Theo giáo điều về Khái Niệm trong trắng, Immaculée Conception, công bố năm
1854). Đến đây, thiết tưởng như thế đă vừa đủ để bạn đọc lĩnh hội được uẩn khúc
thánh nữ đồng trinh trong giáo điều quan trọng nhất của TCG La Mă, nên tôi không
cần đi xa thêm nữa!
NGUYÊN NHÂN XUNG ĐỘT
Bây giờ, t́m hiểu nguyên nhân thù hận và xung đột đẫm máu đă diễn ra dai dẳng
ngót 2 ngàn năm nay giữa đạo Du Già và TCG, ta thấy:
- Về phía Thiên Chúa. Từ thuở sơ khai, họ đă sớm cắt đứt cái cuống rốn (le
cordon ombilical) nối liền huyết thống huynh đệ với dân Do Thái và đạo Du Già.
- Về phía Do Thái. Họ vẫn giữ nguyên bản chất Do Thái, cực kỳ ngoan cố, kiêu
căng và bảo thủ, coi những người tiền phong trong công cuộc khai sáng đạo TC, kể
cả Jésus và 12 thánh tông đồ, cùng gốc Do Thái, đều chỉ là cựu tín đồ Du Già
phản đạo. Hơn thế, người Do Thái c̣n bác bỏ hết các bài thuyết giáo của Jésus,
đồng thời phủ nhận tuốt tuột cả con người của Jésus Chirst, cho rằng Jésus chỉ
là đứa con hoang (enfant bâtard) của một người đàn bà nhơ nhớp !
Dựa trên thánh kinh, nếu xét cho kỹ hành động ly khai đạo Du Già của các môn đồ
chúa Jésus, thực ra cũng chẳng nguy hại ǵ cho lắm. Bởi lúùc đó đạo Du Già hăy
c̣n đang trong thời kỳ truyền giáo, thường thâu nạp mọi hạng tín đồ tân ṭng
(néophytes) thuộc nhiều chủng tộc khác. Những tín đồ tân ṭng ấy đă xin cải đạo
theo Du Già giáo và trở nên công dân Do Thái rất dễ dàng, sau khi đă chịu phép
cắt da bọc qui đầu (như đạo TC chịu phép rửa tội)! Tuy nhiên, các tín đồ tân
ṭng ấy vẫn c̣n phải mang một nhăn hiệu riêng, để dễ phân biệt, gọi là những kẻ
qui phục Thượng Đế, hay c̣n gọi làdân được Thượng Đế lựa chọn...Măi lâu về sau,
dân Do Thái mới thực hiện chủ trương đóng cửa, rút cầu, đóng khung đạo Du Già,
chỉ dành riêng cho bộ tộc Do Thái mà thôi.
Đến thế kỷ VI sau TC, khi 2 đạo TC và Hồi giáo đă trở nên hùng mạnh, nắm quyền
lực thế tục lớn trong tay, họ mới bắt đầu trả đũa, ra lịnh cấm chỉ Do Thái không
được rao giảng giáo lư Du Già cho những người ngoại đạo (les gentiles), mà tiếng
Hébreu gọi là: Goyim!
Ngược lại, nếu Du Già-Do Thái giáo đă dứt khoát không chịu đem những lời giảng
dạy của Jésus Christ, một cựu Rabbin ly giáo, vào trong bộ thánh thư Talmud,
theo tôi cũng không phải là điều tai hại cho lắm.
Thực ra, chính việc thánh Paul cấm Do Thái thực hành tục cắt da bọc qui đầu,
cộng thêm phong trào bài xích Do Thái của người TC, cùng với những cuộc bách hại
dân Do Thái trên khắp lục địa Âu Châu, tạo nên đại thảm hoạ Shoah, mới là nguyên
cớ quan trọng khiến cho dân Do Thái phản ứng mạnh, gạt bỏ hẳn tên Jésus ra khỏi
đạo Du Già, đồng thời không chấp nhận Jésus là chúa cứu thế (Messie) của họ!
Nhưng, khi dân Do Thái phủ nhận Jésus là đấng cứu thế, lập tức phe TCG cũng trả
đũa bằng cách phủ nhận kinh Torah của đạo Du Già. Từ đó sự bất hạnh mới xảy ra,
gây nên những thảm họa đẫm máu và nước mắt, kéo dài hàng mấy ngàn năm, cho cả
hai phe tín đồ của hai tôn giáo ấy.
Theo thiển kiến của tôi, sở dĩ đạo Du Già phủ nhận Jésus, bởi họ đă cố chấp và
thiển cận, không biết rằng Jésus chính là một Rabbin có tư tưởng bác ái, canh
tân, tiến bộ nhất. Ngược lại, phe TCG phủ nhận đạo Du Già, bởi họ đă quá nông
nổi mà quên mất rằng luật Moise và các giáo điều trong kinh Torah và Talmuds đều
là nền tảng vững chắc nhất, để cho các nhà khai sáng đạo TC cóp nhặt, đem vào
thánh kinh của ḿnh.
Nên biết chính nhờ kinh Torah mà bộ Cựu Ước Kinh đă trở nên có giá trị toàn cầu,
vượt cả không gian lẫn thời gian. Trong khi đó những tư tưởng luân lư và đạo đức
của các dân tộc Babylone và Ai Cập, vốn là ṇng cốt của bộ kinh Torah, chẳng bao
lâu sau đă không c̣n một ai biết đến nữa.
NGUỒN GỐC KINH ĐIỂN
Nơi đây, thiết tưởng tôi cần phải nói rơ thêm về nguồn gốc xa xưa của thánh kinh
Du Già và TC. Trong phạm vị TCG, nếu bạn đồng ư với tôi chính Jean-Baptiste là
người báo trước (précurseur) đă dọn đường mở lối (prépare le chemin du Seigneur)
cho chúa Jésus giáng thế (Mathieu 3, 3), chắc chắn bạn sẽ không thể phủ nhận
được một thực thể tương tự trong lịch sử tôn giáo nhân loại là nhà thần cảm lỗi
lạc Zarathoustra (tên Hy Lạp là: Zoroastre), gốc dân Ba Tư (Iranien), hiện hữu
trong khoảng thế kỷ VII trước TC, đă đóng vai tṛ then chốt trong việc manh nha
nên đạo Du Già.
Trong cuộc lưu vong đến Babylone, khoảng năm 586 đến 538 trước TC, dân Do Thái
đă thấm nhiễm sâu đậm tư tưởng tôn giáo của Ba Tư, vốn đă phổ cập rất rộng răi
trong vùng Lưỡng Hà Châu (Mésopotamie), rồi bành trướng mạnh sang khắp các quốc
gia lân cận, nhờ cuộc chiến thắng của vua Cyrus. Mức độ thẩm thấu tư tưởng giáo
lư của Zoroastre trong quần chúng
Hébreux nhanh chóng và trọn vẹn đến độ không bao lâu sau chẳng ai c̣n phân biệt
được những ǵ thuộc về Zoroastre trong sinh hoạt tín ngưỡng hằng ngày của dân Do
Thái. Bởi vậy, ta không lạ ǵ 500 năm sau, khi Jésus Christ, một Rabbin Do Thái
đi giảng đạo đă tỏ ra hầu như không phân biệt được những điều ǵ của Mazda (tên
ông trời của Zoroastre) với những điều ǵ của Yahweh (ông trời của Do Thái)!
Theo tôi, đạo Zoroastrisme của Ba tư chính là một h́nh thức tín ngưỡng đầu tiên
của loài người, đă triệt để phân biệt điều Thiện và điều Ác (le Bien et le Mal).
Giáo thuyết này đă ảnh hưởng sâu đậm vào các truyện trong kinh Sáng Thế
(Genèse), hiện rơ nhất trong chuyện Thiên Đường(Paradis), vốn là một danh từ gốc
Ba Tư, cùng với chuyện cây tri giác phân biệt điều Thiện điều Ác (lArbre de la
connaissance du Bien et du Mal)!
Mặt khác , nếu sau này chúa Jésus Christ, cũng như tất cả các đấng cứu thế
(Messie) khác đă rao giảng người Thiện thắng người Ác, th́ ta phải biết rằng
trước đó hàng ngàn năm Zarathoustra (Zoroastre) đă là một vị giáo chủ đầu tiên
đă truyền bá tư tưởng: Dù thế nào chăng nữa, chung cuộc điều Thiện vẫn thắng
điều Ác. Người Thiện luôn luôn sung sướng, hạnh phúc, và thoát ra khỏi được ṿng
tối tăm (Ténèbres), để hưởng ánh sáng (Lumière) vốn là biểu tượng của Thượng Đế
Ahura Mazda.
Thậm chí, cả đến tục tắt hết đèn nến, để rồi bật sáng lại, trong đêm Phục Sinh
của TCG, chính là một cổ tục có tính cách tượng trưng, đă bắt chước theo đạo
Zoroastrisme của Ba Tư.
Trong kinh Du Già và Ki Tô có nêu lên thuyết ngày tận thế (Apocalypse), nhưng
thực ra cũng chỉ là những ư tưởng cóp nhặt trong sấm truyền của đạo Zoroastre.
Về thuyết hồi sinh của Du Già Do Thái, Thiên Chúa, và Hồi giáo (phái Chiites),
ta thấy đều diễn tả tương tự như nhau, có tính cách gần như đồng nhất. Trong khi
đó các tôn giáo Ba Tư (Iran)và Ấn Độ c̣n thông báo rơ hơn về sự dẫn đến một cuộc
đổi đời trong vũ trụ sắp tới, một chu kỳ diễn tiến chưa biết sẽ đem đến điều
lành hay điều dữ.
Bởi Zarathoustra là một nhà tiên tri không tự nhận là con trời (như Jésus đă thụ
mệnh Thượng Đế sai xuống làm người trong thế gian), nên ông chỉ rao giảng về sự
cứu thế (Rédemption) chứ không truyền bá thuyết hóa thân (Incarnation) như đạo
Thiên Chúa hay một vài đạo khác. Tuy nhiên, các dị biệt này vẫn chưa đủ để các
nhà lănh đạo TCG thời Trung Cổ biến đấng tiên tri Zoroastre thành một kẻ đại cừu
thù, một loại phù thủy, cần phải đánh phá, hoặc lôi ra ṭa án giáo h́nh với tội
trạng vô đạo, sàm báng đạo Chúa, và truyền bá những tư tưởng nghịch với giáo
điều trong thánh kinh v.v...
Tóm lại, theo nhận xét của tôi, nếu không có những bản thánh thư của Do Thái c̣n
lưu truyền, như Cựu Ước Kinh, có lẽ không ai hiểu được gốc ngọn đạo TC là ǵ.
Chuyện trong thánh kinh của đạo TC sẽ chẳng khác nào như chuyện của một ông già
lẩm cẩm hay quên trước quên sau, tiền hậu bất nhất. T́m hiểu quá tŕnh h́nh
thành TCG, ta thấy cái đầu hoàn toàn Do Thái, và nếu không có đạo Du Già chắc
đạo TC đă chẳng c̣n một cơ sở cội rễ nào để nương tựa...
Tuy nhiên ngược lại, nếu không có TCG, đạo Du Già của Do Thái cũng chẳng mấy ai
trên thế giới này biết đến. Những suy tư, tái thẩm định lại sau này của đạo Du
Già trong bộ kinh Talmud [quyển Mishna là một sựu tập các khẩu luật (loi orale),
gồm 63 chuyên luận, viết bằng tiếng Hébreu, trong khoảng thế kỷ II và III, được
coi như bộ giáo luật của Du Già giáo. Quyển Gemara, biên soạn khoảng các thế kỷ
V và VI] vẫn không sao bù đắp lại được những đổ vỡ, mất mát thảm hại đă xảy ra
rồi.
Kết luận, bởi đạo Du Già và TCG La Mă ngay từ buổi sơ khai đă ḱnh chống lẫn
nhau, rồi lại c̣n thiển cận phủ nhận tuốt luốt tất cả những ưu điểm của nhau, đă
khiến cho tiềm lực bành trướng của cả hai tôn giáo bị giảm sút rất nhiều trên
b́nh diện toàn cầu. Quả là một đại thảm họa cho các giới tín đồ của hai đạo ấy
suốt mấy ngh́n năm qua!
May sao, măi đến tận năm 1986 mới có một vị giáo hoàng La Mă, Jean Paul II, đă
đích thân đến một Synagogue của đạo Du Già, để tuyên bố trước đông đảo tín đồ Do
Thái một câu có tính cách ḥa giải, nguyên văn như sau: En un sens, vous êtes
nos frères ainés dans la foi....(Trên một chiều hướng nào đó, quí vị là những
người anh cả của chúng tôi trong đức tin)...
THÁNH KINH DO THÁI DẠY CÁI G̀ ?
Chẳng khác ǵ Ấn giáo và Hồi giáo, đạo Du Già chỉ dành riêng cho dân Do Thái,
như một thứ sản phẩm đặc chế. Từ xưa đến nay, trong khi mọi người đều có thể cải
đạo theo TCG, Tin Lành, hay PG, ngược lại, không mấy ai có thể trở nên tín đồ Do
Thái giáo (đạo Du Già). Các đạo Du Già, Ấn giáo và Hồi giáo có tính cách huyết
thống, gia truyền. Riêng đạo Du Già càng bảo thủ nghiêm ngặt hơn. Bởi từ thời cổ
xưa, hàng mấy ngàn năm trước TC, người Do Thái đă sợ bị pha giống, bị mất bản
sắc Do Thái, không bảo tồn được luật Moise, trước biển người chung quanh đông
đảo hơn, hùng mạnh hơn, gồm các sắc dân Ai Cập, Hy Lạp, La Mă, Ả Rập, Xu Me, Ba
Bi Lon (Babylonnien) v.v...
Trong khái niệm về Thượng Đế, các đạo khác, như Ấn giáo cho rằng Thượng Đế gồm 3
thể (triple forme): Brahma, Shiva, và Vishnou, Thiên Chúa giáo chủ trương 3
ngôi: Chúa cha, chúa con, và đức bà Maria (hoặc thánh thần)... Riêng đạo Du Già
chỉ có độc nhất một Élôhim (ông trời), tên gọi là: Yahweh (tiếng Hébreux), Yahvé
(Pháp), Yéhovah (Anh)... Xuyên qua ngôn từ và hành động của Élôhim đă ghi trong
các bộ thánh kinh chủ yếu: Torah (Cựu Ước), và Talmud, nhất là luật báo phục,
c̣n gọi là luật TRẢ THÙ, vay sao trả vậy (Talion), đạo Do Thái đă bộc lộ rơ rệt
tính khí cao ngạo, hiếu chiến, khát máu, tham lam, ích kỷ, biển lận, và kỳ thị
vô lối (không kém ǵ Ấn Giáo)...
Nên biết luật Báo Phục (Talion) vốn đóng một vai tṛ quan trọng trong bộ thánh
kinh và 10 điều răn của Moise, qui định việc chặt chân, chặt tay để trả thù tay
đổi tay, chân đổi chân (Ex 21, 24). V́ vậy, nơi đây tôi xin đơn cử vài bằng
chứng cụ thể c̣n ghi trong giáo sử, để bạn đọc hiểu rơ thêm về lối trả thù của
người Do Thái. Thánh thư Juges kể chuyện ngày xưa người Hébreux đánh nhau với
một vị vua Canaan (Palestine ngày nay), tên Adoni-BéZéq, có đoạn nguyên văn như
sau:... Ils le poursuivirent, le saisirent et lui tranchèrent les pouces des
mains et des pieds (Người Hébreux truy kích, bắt được nhà vua và chặt hết những
ngón tay và ngón chân của ông ta) (Jg 1,6).
Thánh thư 1 Maccabées kể: Sau khi người Do Thái nổi loạn chiến thắng đạo quân
của Nikanor, có câu nguyên văn:... On coupa la tête de Nikanor ainsi que sa main
droite quil avait tendue insolemment; on les emporta et on les exposa aux abords
de Jérusalem. Le peuple fut en grande liesse et on célébra ce jour comme un
grand jour dallégresse ( Người ta (Do Thái) chặt đầu của Nikanor cùng với cánh
tay mặt mà ông ta đă giơ lên một cách xấc xược; người ta đem những thứ đó theo
và trưng bày trong vùng phụ cận Jérusalem. Dân chúng vui sướng đến tột cùng và
tổ chức ngày đó như một ngày đại lễ liên hoan) (1M 7,47, 48) !...
GIAN THAM
Trong chương Exode (12,12) ông trời của dân Do Thái hung hăng tuyên bố: Chống
lại tất cả Thượng Đế của Ai Cập, ta sẽ thực hiện những phán quyết của ta. Nơi
chương Isaie (44,6) ông trời này c̣n kiêu căng hợm hĩnh rêu rao: Chính ta là kẻ
đầu tiên, chính ta là kẻ cuối cùng, ngoài ta, không có Thượng Đế! (Cest moi le
premier, cest moi le dernier, en dehors de moi, pas de dieu !). Như thế, bằng
cách đó, rơ ràng dân Do Thái đă phủ nhận tất cả mọi thứ ông trời của các dân tộc
khác trên thế giới. Trong thiên hạ chỉ có độc một ông trời Élôhim của dân Do
Thái. Và ông trời này đă chọn dân Do Thái làm một dân tộc của riêng ông ta, ḍng
dơi hậu duệ của ông ta, do ông ta trực tiếp chỉ huy mọi hoạt động...Kinh Torah
(Cựu Uớc) c̣n ghi rơ lời phán truyền của Yahweh, do Lévi (một chi tộc trong 12
chi của bộ lạc du mục Hébreux) kể lại như sau: Chỉ có ḍng họ Lévi được phép rao
truyền lời của Yahweh mà thôi. Chỉ có ḍng họ Lévi được làm giáo phẩm. Chỉ có
ḍng họ Lévi được giữ đền đài của Yahweh. Chỉ có ḍng họ Lévi được hưởng tất cả
những ǵ mà dân chúng cúng vào đền thờ Yahweh. Tất cả mọi mệnh lệnh của Yahweh
đều phải được triệt để thi hành...
Ngoài ra, dân Do Thái c̣n vin vào câu sau đây trong chương Sáng Thế (Genèse,
17,7-8): Chúa trời Yahweh hứa dành riêng cho ông Abraham và con cháu của ông
vùng đất Canaan, nơi đây gia đ́nh ông Abraham hiện là những người chỉ tạm cư
trú, rồi gọi đó là vùng đất hứa, để ngày nay hậu duệ của họ dùng làm chính nghĩa
chủ quyền lănh thổ (!), tha hồ kéo nhau về chiếm đất cắm dùi, bắn giết, trục
xuất dân Palestine, vốn đă sinh sống ở đó từ 2000 năm qua.
Vẫn chưa đủ, dân Do Thái c̣n tạo lời của Yahweh, ghi trong thánh kinh (chương
Deutéronome 35, 1-5) câu:...phải dành riêng cho ḍng họ Lévi 48 thành phố lớn,
chung quanh mỗi thành phố phải dành 1.000 sải về phía Bắc, 1.000 về phía Nam,
1.000 sải về phía Tây, 1.000 sải về phía Đông, để làm đồng cỏ cho gia súc của
ḍng họ Lévi ăn!(* sải=mét)...
Phản ánh trung thực bản chất tham lam đến mức cực kỳ vô liêm sỉ của dân Do Thái,
trong kinh Exodus (chương 29, 38-39) Yahweh phán: Đây là phẩm vật các ngươi phải
cúng vào đền thờ ta, từ nay và măi măi về sau, mỗi ngày hai con cừu non một
tuổi. Một con vào buổi sáng sớm, và một con vào lúc hoàng hôn.
Đến chương Exodus (34,19-20), Yahweh vẫn c̣n lải nhải tham lam đ̣i hỏi lễ vật:
Tất cả các trưởng nam đều thuộc về ta, cùng các con đực đầu ḷng của bầy gia súc
của các ngươi, hạoc ḅ hay cừu cũng vậy. Tất cả con lừa đực sinh ra trước tiên
th́ ngươi phải chuộc bằng một tiểu gia súc. Nếu ngươi không chuộc th́ phải bẻ cổ
nó cho chết. Nhưng ngươi phải chuộc các con trưởng của các ngươi. Và không ai
được đến trước mặt ta với hai bàn tay trắng!
Chỉ cần dẫn chứng vài điều như trên, chắc bạn đọc đă nhận ra được bản chất kiêu
căng, đầy mặc cảm tự tôn (complexe de supériorité), và các thói ích kỷ, tham
lam, biển lận, có tính truyền tử lưu tôn của dân Do Thái. Chính họ đă bịa ra ông
trời Yahweh trong thánh kinh, rồi chiếm giữ độc quyền luôn ông Yahweh đó, và
dựng chuyện thiên khải ông Yahweh đă hứa giành đất đai, và nhiều thành phố lớn
cho ông già Abraham và các đời con cháu của ông ta!
Như thế, rơ ràng ông trời ấy chỉ là ông trời của riêng dân Do Thái, và suốt mấy
ngàn năm qua, ông Yahweh chẳng khác nào một cái h́nh nộm, hay một tên bù nh́n
ngoan ngoăn nằm im trong đôi bàn tay quỉ quyệt của dân Do Thái.
Mặc dù thiên hạ ngày nay đă đông tới cả chục tỷ người, nhưng theo thánh kinh,
vẫn chỉ có mười mấy triệu Do Thái là dân được ân sủng, ưu tuyển (peuple élu) của
ông ta.
TÀN ÁC DĂ MAN
Chương Deutéronom (13,7-12) viết: Nếu anh em ngươi, con trai của cha ngươi, hay
con trai của mẹ ngươi (con riêng của mẹ, tức anh em cùng cha khác mẹ), con trai
của ngươi, con gái của ngươi, hay vợ ngươi t́m cách bí mật dẫn dụ ngươi khi nói
rằng: Chúng ta hăy đi tôn thờ các thần khác, các thần mà cha ông ngươi không
biết đến, đó là các thần của những dân tộc khác ở xa hay ở gần, từ đầu này cho
đến cuối mặt đất, ngươi không được chấp thuận nó, ngươi không được nghe theo lời
nó, mắt ngươi không có thương hại, ngươi không tha thứ nó và ngươi không che đậy
cho nó.
Đúng thế, ngươi phải giết nó, bàn tay ngươi trước tiên giết nó, rồi mới đến bàn
tay những người dân khác. Ngươi ném đá nó cho đến chết, v́ nó đă muốn đưa ngươi
đi lầm đường, đi xa Yéhova của ngươi, ngài đă đem ngươi ra khỏi cảnh nô lệ ở Ê
Díp Tô (Égypte:Ai Cập).
Tất cả nước Do Thái khi thấy tin này sẽ đem ḷng kính sợ và không c̣n dám phạm
lỗi ở chỗ ngươi ở nữa.
Lời khuyên trên đă dựa vào yếu tố lịch sử này: Khoảng năm - 932 trước TC, sau
khi vua Salomon qua đời, dân Hébreux (thủy tổ dân Do Thái ngày nay) bị chia rẽ
trầm trọng. Mười bộ tộc miền Bắc ly khai, lập ra vương quốc khác, nằm kề cận
vùng Cisjordanie và Galilée ngày nay, lấy danh hiệu là Samarie (c̣n gọi là:
Israel). Trong khi đó các bộ tộc khác ở miền Nam , vùng Jérusalem, lập ra vương
quốc Judée (c̣n gọi là: Juda), và chính thức tự xưng là dân Juif (Do Thái), và
tôn giáo gọi là :Du Già (Judaisme).
V́ dân Samarie miền Bắc chủ trương canh tân tôn giáo và cải cách xă hội, nên
chương Osée 14, câu 1, (trong bộ Les Prophètes), đă ghi lời Yahweh giận dữ, ác
độc phán : Sa Ma Ri phải bị trừng trị. Nó đă phản lại thượng đế .Chúng nó sẽ bị
giết bằng gươm, trẻ sơ sinh sẽ bị đè nhẹp và đàn bà có thai bị mổ bụng!!!
LỪA ĐẢO, DÂM LOẠN
Tiêu biểu cho bản chất lưu manh lừa gạt của dân Do Thái, ta t́m thấy ngay trong
chương Sáng Thế (Genèse) (27, 1-27) một chuyện kể làm gương cho hậu thế như sau:
Ông Isaac (con Abraham, em cùng cha khác mẹ với Ismael. chuyệïn này đă kể trong
một chương trước) được 89 tuổi, bị mù ḷa. Một hôm nhận thấy cái chết gần kề,
ông mới bảo người con cả là Esau đi săn bắn, rồi đem nấu cho ông một bữa ăn
thịnh soạn, để ông ban phước lành cho Esau làm tộc trưởng Do Thái.
Bà mẹ của Esau là Rebecca nghe lóm được. Nhưng v́ bà ta thương đứa con thứ là
Jacob hơn, nên khi Esau đi săn bắn, ở nhà bà bảo Jacob bắt 2 con dê nhỏ làm
thịt. Bà nấu một bữa ăn thịnh soạn, rồi bảo Jacob đem lên cho ông Isaac ăn, và
nói dối chính nó là con trưởng. V́ mù ḷa nên ông Isaac bị lừa gạt. Ông ăn và
ban phước cho Jacob. Từ đó Jacob trở thành tộc trưởng dân Do Thái, lấy biệt hiệu
là Israel, về sau trở thành quốc hiệu của dân Do Thái...
Những thủ đoạn lường gạt đảo điên, anh em giết lẫn nhau của tổ tiên dân Do Thái
ghi trong thánh kinh c̣n nhiều lắm, chẳng hạn như vụ hai cha con ông Abraham và
Isaac lừa gạt Abimeleck, vụ Lévi lừa gạt Hamor, Jacob lừa gạt Isaac v.v...không
sao kể hết nơi đây! ( muốn nhớ, xin đọc lại chương Đạo Du Già và dân Do Thái).
C̣n về mặt loạn luân, dâm dục bẩn thỉu...trong thánh kinh Do Thái cũng không
hiếm, chẳng hạn như vụ hai người con gái của ông Lot ( ở Sodome và Gomorrhe) đă
âm mưu phục rượu cha, để ba cha con cùng cẩu hợp, rồi sinh ra con cái tùm lum,
hay chuyện Amram cẩu hợp với cô ruột là bà Yokebed, đẻ ra hai anh em Moise và
Aaron, hoặc chuyện ông già Abraham lấy em gái là nàng Sarah v.v...( Theo Jacque
Atteli, trong tác phẩm Les Juifs, le monde et largent, th́ ông già Abraham, thủy
tổ của dân Do Thái đă không phạm tội loạn luân, mà chỉ có máu tham lam và biển
lận thôi. Lúc nàng Sarah c̣n trẻ, thường có nhiều chàng trai xa lạ đến gấm ghé,
ṭ vè, nên ông già Abraham đă nói dối là em gái, để bọn dê cỏn buồn sừng húc dậu
thưa đem qùa cáp, tặng phẩm đến cung hiến. Bao nhiêu ông tém hết!).
KỲ THỊ VÀ CHIA RẼ
Thánh kinh Do Thái dạy tín đồ kỳ thị nữ giới (như kinh Vệ Đà của Ấn giáo) và kỳ
thị chủng tộc.
Trước hết, ta thử t́m hiểu xem người đàn ông Do Thái đối với giới phụ nữ của họ
ra sao?
Trong tín ngưỡng Do Thái, chẳng khác nào TCG và Hồi giáo, ta thấy ông trời của
họ đều chỉ là đàn ông. Bởi họ quan niệm ông trời, tức ông vua trên thiên đàng,
đóng vai chúa tể nhân loại, quyền năng vô song, phải là một nam nhân tức phải
khỏe. Đối với các tín ngưỡng này, ông trời là một ông vua không ngai , một ông
cha không vợ!
Trong tôn giáo Hy Lạp, ta thấy đầy rẫy nữ thần đủ loại, đóng đủ vai tṛ, như:
Héra (vợ của Zeus), Aphrodite, người yêu, ngoại t́nh, Déméter ( người mẹ), nữ
thánh đồng trinh thiên nhiên Artémis, và nữ thánh đô thị đồng trinh Athéna, nữ
thánh gia đ́nh đồng trinh Hestia v.v...Ngược lại , ở Do Thái, ngay đến việc tế
tự cũng tuyệt đối dành riêng cho nam giới. Trong khuôn viên đền thờ Jérusalem,
nữ giới bị chỉ định vào một khu riêng biệt, và cấm không được phép lai văng đến
bàn thờ, nơi diễn ra những cuộc tế thần. (V́ Do Thái có tục làm lễ tế thần tại
đền thờ, giết cừu, lấy máu tưới lên bàn thờ, trong khi đó đàn bà lại có
tháng...!). Chương Sáng Thế (Gn 2) có câu: Yahweh đă tạo ra một nam nhân, như
chính Yahweh, và sau đó, từ cơ thể của nam nhân, một người nữ tháp tùng, trở nên
một cặp người giống nhau.
Quyền ly dị thuộc về đàn ông. Chỉ cần một lá thơ, người đàn ông có quyền bỏ vợ
(Dt 24, 1s). Ngược lại người đàn bà không được phép ly dị chồng. Sự kỳ thị bất
công này đă dựa trên chương Sáng Thế , câu sau đây: Người đàn bà đă được sinh ra
để làm trợ tá cho đàn ông (Gn 2, 18), và phải là một vật dụng quí giá của hắn,
do chính hắn đă tạc thành (Talmud, Sanhédrin, 22b). Vậy, nếu khi hắn không c̣n
cảm thấy hợp vị nữa, hắn có quyền tách rời người đàn bà ra...Người đàn ông không
có bổn phận phải sống với người đàn bà cho đến chết như một số dân tộc khác (như
các dân tộc theo TCG)...Bởi hôn nhân, người đàn bà trở nên một phần của thân thể
người chồng, từ trong bản thể cho đến cả đến nguồn gốc, người đàn bà đă được
sinh ra bởi một phần xương thịt của đàn ông.
Luật này dành riêng cho nam giới, và chỉ nam giới có bổn phận phải học luật này
để trao truyền lại cho các thế hệ con (trai) ngày sau. Đây là lời dạy trong
kinhTorah: Học kinh Torah và giảng dạy kinh Torah là một nhiệm vụ (mitsva)...
Lời dạy phải thực hiện ở tất cả mọi nơi và trong mọi lúc chỉ dành riêng cho đàn
ông mà thôi, bởi v́ nữ giới được phép miễn học kinh Torah. Trong chương Dt, 11,
19 c̣n nói rơ thêm: Các ngươi sẽ dạy con trai các ngươi, chớ không dạy con
gái....
Cho đến tận bây giờ, hằng ngày, trong mỗi cuộc cầu kinh buổi sáng, người đàn ông
Do Thái vẫn c̣n luôn luôn cầu nguyện và xuưt xoa cám ơn Thượng Đế đă ban cho họ
được sinh vào nam giới. Lời cầu nguyên văn : Chúc tụng Ngài, Thượng Đế của chúng
con, vua cả thế giới, ngài đă không làm cho con (sinh ra ) làm đàn bà !!!
Đă nói đến sự kỳ thị nữ giới của đạo Bà La Môn (Ấn Giáo), đạo Du Già Do Thái, mà
nơi đây tôi không đề cập đến thái độ của Hồi giáo đối bới nữ giới, thực là một
thiều sót không chấp nhận được. Hồi giáo cũng kỳ thị phụ nữ không thua ǵ, có
khi c̣n khắc nghiệt hơn cả Ấn Giáo và Du Già giáo. Trong kinh Coran, chỉ xuất
hiện độc nhất một người nữ, đó là bà Marie, đức mẹ của chúa Jésus. Trong kinh,
bà Eve được chỉ định vai tṛ như người vợ của Adam (2, 35). Người đàn ông đầu
tiên thủy tổ nhân loại được sáng tạo bằng đất sét lấy từ chất bùn dẻo (15, 33),
và Thượng Đế đă hà hơi tạo sinh khí vào đó (38, 72). Nhưng c̣n người đàn bà do
đâu mà ra?
Kinh Coran không nói rơ nguyên lai xuất xứ , chỉ nói lơ mơ là do người đàn ông ,
có vẻ huyền bí như trong kinh Du Già Thiên Chúa, chương Sáng Thế, bằng
câu:Thượng Đế đă tạo cho các ngươi, lấy từ các ngươi ra những người vợ ...
(30,21). Đối với đàn ông Hồi giáo (tôi nói trên lư thuyết), người phụ nữ chẳng
khác nào những món đồ chơi dùng để giải trí, mà họ luôn giữ rịt trong nhà để
giải trí. Năm 1996, khi nhóm Talibans (sinh viên thần học) thuộc phe Hồi giáo
Sunnites, chiếm được chính quyền ở thủ đô Kabul, A Phú Hăn (Afghanistan), đă ra
lịnh cấm tất cả đàn bà con gái ra đường một ḿnh, cấm không được làm việc, hay
học hành. Thậm chí khi bị bịnh, người phụ nữ A Phú Hăn cũng không được phép đến
nhà thương để săn sóc. Trong trường hợp tuyệt đối cần thiết phải ra khỏi nhà,
theo luật Charia do Thượng Đế Allah ban hành, người phụ nữ phải trùm lên người
một cái áo dài, như một cái ống, phủ kín mít từ đầu xuống đến chân, trước mặt
chỉ chừa một khung vuông có những lỗ thủng nhỏ để thấy đường... (Kinh Coran minh
thị trong các tiết II, 228 và IV, 34)!
Mặt khác, với các đặc tính như đă kể trên, đặc biệt là máu kiêu căng tự cao tự
đại, dân Do Thái đă tỏ ra kỳ thị chủng tộc đến mức mù quáng ngông cuồng. Chẳng
những kỳ thị những kẻ yếu kém hơn, dân Do Thái lại c̣n kỳ thị ngược, và thẳng
tay trấn lột cả những dân tộc đang cưu mang, nuôi dưỡng họ. Chẳng hạn như ở Âu
Châu, trải bao đời tổ tiên lưu vong, dân Do Thái phải sống bám vào dân bản địa,
như loài đỉa hút máu chân trâu, nhưng họ lại ra mặt kỳ thị dân bản địa, khiến
các vụ bài Do Thái, diệt Do Thái đă bùng nổ khắp Âu Châu trước đệ nhị thế chiến,
đặc biệt nghiêm trọng nhất là ở Nga Sô và Đức Quốc.
Bản chất kỳ thị của dân Do Thái đă bị hun đúc bằng các giáo điều ghi trong kinh
thánh, ngụy trang dưới danh nghĩa thanh khiết, biểu hiện qua các h́nh thức tục
lệ tín ngưỡng như: trang phục, ăn chay, cắt da bọc qui đầu, v.v...
Chẳng khác ǵ kinh Vệ Đà của Ấn giáo, chương Sáng Thế (Genèse, 1, 24-25) minh
thị thượng đế Élôhim đă tạo ra các sinh vật theo từng chủng loại riêng biệt.
Loại ở trên không trung , loại ở trên mặt đất, loại ở dưới nước. Thượng Đế cấm
không được cho các loài vật khác chủng loại giao hợp để pha giống, không được
trồng các loại cây khác giống chung trong một vườn. Ông trời của Do Thái c̣n cấm
cả đến chuyện ăn mặc. Không được mặc quần áo dệt bằng những chất liệu vải , sợi
khác nhau, như vải chung với lụa, hay len chung với tơ, hay một chất nào khác
v.v...Từ đó, thánh kinh mới tiến sâu vào chuyện chia rẽ, phân biệt các chủng tộc
của loài người bằng câu sau đây nơi chương Lévitique (20, 24-25): Chính ta,
Jahweh, là Élôhim (thượng đế) của các ngươi, đă phân chia các ngươi ra từng
chủng tộc. Như vậy, các ngươi phải phân biệt các loài vật, và chim muông, phân
biệt tịnh với bất tịnh. Các ngươi không để cho bị ô nhiễm bởi thú vật và chim
muông, hay bởi tất cả những ǵ rẫy đầy trên mặt đất. Tóm lại ta phân biệt các
ngươi bởi sự bất tịnh.
Chưa hết, ông trời Do Thái c̣n chia manh mún (subdiviser) con người ra thành
những bộ tộc nhỏ khác nhau, chẳng khác ǵ cách phân chia các loài điểu thú.
Ḍng dơi hậu duệ của Nóe (người độc nhất sống sót trong nạn Đại Hồng Thủy), là
cha đẻ của Sem, Cham, và Japhet, cũng bị ông trời Do Thái chia ra làm 3 nhóm
chủng tộc khác nhau: Con của Japhet là: Hy Lạp, con của Cham gồm: Ai Cập, Ả Rập,
và chủng tộc ở Canaan, con của Sem gồm: dân Mésopotamie, Araméen, và dân Hébreux
(tức thủy tổ Do Thái).
Ngày nay ai cũng biết, từ thuở khai thiên lập địa đă có rất nhiều sắc dân sinh
sôi nảy nở, ở rải rác khắp nơi trên mặt đất. Nhưng tội nghiệp, ông trời Do Thái
(hay bọn đạo sĩ Do Thái viết thánh kinh) lúc bấy giờ c̣n thiển cận thảm hại, nên
chỉ biết có mấy sắc dân loanh quanh trong ṿng liên hệ với dân Do Thái mà thôi.
Bởi thế, nên thánh kinh kể thủy tổ nhân loại chỉ có 3 chi nhánh hậu duệ của Sem,
Cham và Japhet. Đồng thời ông trời Do Thái thiển cận này c̣n chỉ định cho 3 chi
nhánh thủy tổ của nhân loại đó phải phân tán ra và tùy theo ngôn ngữ, chia ra
từng phe nhóm, lập thành từng quốc gia...(Genèse, 10,5:cf.10,20 và 10,31).
Các bạn có biết tại sao ông ta đă phải chia ra như thế không?
Hăy ráng nghe thánh kinh (các chương Genèse 11,1- Genèse 11,4- và V 7-8) giảng
giải nguyên nhân. Xin tóm gọn như sau: Vào thời điểm không chỉ định rơ rệt,
nhưng theo tôi, chắc là sau trận Đại Hồng Thủy chẳng bao lâu, lúc bấy giờ con
người c̣n dùng chung một ngôn ngữ, nên đă gắn bó với nhau chặt chẽ, sống tập
trung vào một thành phố lớn, và toan chống lại những ư đồ của Yahweh. Loài người
đă đoàn kết thành một khối để thực hiện tham vọng ḱnh chống Yahweh bằng cách
dựng lên trong thành phố đó, tên là Babel (thuộc Irak ngày nay, cách thủ đô
Bagdah khảong 160 km, nơi đang diễn ra chiến tranh khốc liệt, đượm màu sắc tôn
giáo giữa Mỹ và Irak, không khác ǵ thánh kinh...), một cái tháp thật cao chọc
tới tận lănh vực nhà trời của Yahweh.
V́ thế, để trừng phạt bọn phản động ấy, Yahweh Do Thái đă tạo ra các loại ngôn
ngữ khác nhau để cho con người không c̣n hiểu được nhau nữa, rồi cưỡng bách con
người phải sống chia rẽ, mỗi người một nơi, để không c̣n xây được tháp và tạo
được thành phố lớn!
Tuy nhiên, trong đám con người đó, Yahweh đă ban ân sủng, ưu tuyển dân Hébreux
cho là chủng tộc của ông ta. Từ đó, giữa vũ trụ bao la này, Yahweh và dân Do
Thái chỉ biết có nhau, cứ thế ôm chặt lấy nhau, ưu đăi riêng nhau, chẳng cần
biết đến các chủng tộc khác và các nền văn hóa khác nữa. Chính niềm tin mù quáng
ấy đă chia giống người làm hai nhóm: Nhóm thuần túy Do Thái. Nhóm khác, bị dân
Do Thái liệt vào thành phần đối nghịch, gọi là:goyim ( dịch sang Hy Lạp là:
ethnè, tiếng La Tinh là: gentes hay gentiles. Tiếng Do Thái có nghĩa: hạng người
ô uế, bất tịnh, ngoại chủng và dị giáo, tức gồm tất cả mọi giống người không
phải Do Thái).
Phân chia như thế tự nhiên tạo ra sự đối nghịch nhị nguyên gồm lưỡng cực: Cực
thuận và xác định chỉ độc một ḿnh Do Thái. Cực phủ định gồm toàn thể nhân loại
trên thế giới. Đó là sự phân biệt lố bịch quá đáng. Ai cũng thấy rơ và phê b́nh
kịch liệt. Nên v́ vậy, từ thời Moise cho đến ngày nay, thỉnh thoảng ta thấy vẫn
có người Do Thái t́m cách bào chữa cho thánh kinh, ngụy biện rằng sự phân biệt
như thế, dân tộc nào cũng có. Để chứng minh, họ thường nêu danh từ barbaroi của
Hy Lạp cổ đại ra để so sánh với goyim. Điều này chứng tỏ người Do Thái rất ngoan
cố. Sự so sánh như thế xét ra không xứng hợp, v́ thực chất và nguồn gốc của hai
từ goyim và barbaroi hoàn toàn khác nhau.
Người Do Thái đă không biết thời Hy Lạp cổ đại chữ barbaroi chỉ dùng để gọi
những người không nói được tiếng Hy Lạp, chẳng khác nào những người VN trên đất
Mỹ không nói được tiếng Mỹ. Sự phân biệt này thuộc về ngôn ngữ, tức nằm trong
phạm vi văn hóa, chớ không thuộc về tôn giáo. Nhất là không hàm ư khinh miệt và
kỳ thị.
Hơn thế, nên biết, dân Hy Lạp đă du nhập rộng răi nhiều thần linh của các nguồn
tín ngưỡng khác vào tôn giáo của họ (như Cybèle Á Châu, hay Isis Ai Cập, Mithra
của Ba Tư v.v...). Tinh thần sùng bái thượng đế của Hy Lạp cũng cởi mở, thoải
mái. Ngược lại, theo thánh kinh Do Thái, tôn giáo gắn chặt với bộ tộc. Đạo Du
Già với dân tộc Do Thái đă kết thành một thực thể bất khả phân ly. Bằng cớ hùng
biện nhất: Măi đến thời Jésus ra đời, đền thờ Jérusalem vẫn c̣n là nơi nghiêm
cấm nghiệt ngă đối với dân goyim . Kẻ nào không thuộc chủng Do Thái, không phải
tín đồ Du Già, vô phúc lớ ngớ đặt chân đến đó sẽ không thoát khỏi tội tử h́nh.
(Đến thế kỷ đầu tiên của kỷ nguyên này, người ta c̣n ghi nhận những tấm bảng
viết bằng chữ Hy Lạp và La Tinh, nghiêm cấm dân goyim không được bước qua khỏi
bức tường ngăn chia hành lang của đền thờ với những khoảng sân rộng có các khu
cư trú của người Do Thái. Ai vi phạm bị tội tử h́nh). Đó là chuyện xưa, nhưng
ngày nay vẫn không khác. Từ năm 1948 đến nay, tại Palestine, khi người Do Thái
đến chiếm ngụ khu nào, những người Palestine ở đó, dù đă hàng ngàn năm, vẫn đều
bị bắn giết, hoặc xua đuổi đi một chỗ thật xa !
Muốn t́m trong thánh kinh Do Thái những bằng cớ chứng minh thái độ kỳ thị chủng
tộc và lối sống biệt lập, xa lánh các giống người khác, thực không không khó và
không hiếm. Chỉ cần lướt qua, ta đă bắt gặp nhan nhản trong bộ kinh Talmuds và
trong sách giảng của các đạo sĩ Rabbins. Thí dụ như câu:Élevez une clôture
autour de la Torah( dựng lên một cái hàng chung quanh kinh Torah) (Abot 1,1).
Câu này đă được các đạo sĩ Du Già giải thích rất rơ ràng cặn kẽ: lập hàng rào
chung quanh kinh Torah, là để bảo vệ luật Moise. Hàng rào đó chẳng khác nào như
một chiến lũy bao bọc chung quanh thành, để ngăn chận không cho bọn goyim lại
gần dân Do Thái, đồng thời cũng để cho dân Do Thái phải sống cách biệt với các
giống người khác , mà thánh kinh đă minh thị: Do Thái là một dân tộc sống riêng
rẽ, không kể trong các quốc gia (Nb 23,9).
Ư tưởng bắt dân Do Thái phải dựng lên một cái hàng rào chung quanh ḿnh, để ngăn
chận bọn ngoại chủng, chính là lời dạy của Moise, đă t́m thấy trong Lettre d
Aristée à Philocrate, do những người Do Thái ở Alexandrie viết bằng tiếng Hy
Lạp, vào khoảng cuối thế kỳ II trước công nguyên: Nhà lập pháp, được thượng đế
ban cho năng khiếu khoa học hoàn cầu, đă bao bọc chúng ta bằng một hàng rào
không kẽ hở và một một bức tường sắt, để tránh mọi sự ô uế, tạp nhạp dù thật nhỏ
của các chủng tộc khác , để cho chúng ta là một dân tộc mà thân thể và linh hồn
giữ được tự do trong tín ngưỡng, tự do chiêm ngưỡng thượng đế độc nhất và toàn
năng của chúng ta, xua đuổi tuyệt đối tất cả mọi sinh vật khác (IX, 139,49)...
Tóm lại, thánh kinh Do Thái, và luật Moise cũng chẳng khác ǵ kinh Vệ Đà của Ấn
Độ, nhồi sọ tín đồ của họ các giáo điều dă man, lạc hậu, buộc phải xa lánh các
chủng tộc khác, không được quây quần với những người ngoại chủng, dù chỉ trong
một bữa ăn. Người tín đồ Do Thái ngoan đạo không được lấy vợ, lấy chồng ngoại
chủng, không được bắt chước...Đặc biệt nhất là các đạo sĩ Rabbins c̣n cuồng tín
mù quáng hơn nữa. Họ nhắm mắt lại, không cần biết đến những kinh nghiệm thực tế
trước mắt, và sự xung đột của các nguồn văn hóa khác biệt trên khắp thế giới. Họ
cho rằng , ngoài Do Thái, chẳng có sự giải thoát nào khác.
HIẾU CHIẾN VÀ KHÁT MÁU
Hàng ngàn năm nay, dân Do Thái đă mắc phải cái bệnh trầm kha kiêu căng lố bịch,
tự coi ḿnh là số 1 và dân tộc ḿnh là cái rốn của vũ trụ (ethnocentriste).
Chuyện tôi dẫn chứng nơi đây, chẳng những nguồn gốc thuộc thánh kinh mà c̣n do
chính cửa miệng một đại đạo sĩ Do Thái ( Grand Rabbin) ở Pháp, thốt ra trong
buổi tưởng niệm các nạn nhân Đức Quốc Xă, vào một ngày trong tháng 9, năm 1999,
tại Grande Synagogue ở Paris, trước sự hiện diện của đông đảo quan khách đại
diện chính quyền, quân đội Pháp và nhiều đoàn thể tôn giáo khác, một câu nguyên
văn, khiến ai cũng phải sững sờ kinh ngạc: Il a été dit dans le Sinai: Celui qui
sauve un homme sauve lhumanité.(Trên sa mạc Sinai Ngài đă nói: Kẻ nào cứu một
người là cứu cả nhân loại). Có nghĩa: Trên sa mạc Sinai, thánh Moise đă nói kẻ
nào cứu một người Do Thái thoát chết tức cứu cả nhân loại khỏi chết!
Câu nói chói lỗ tai ấy đă khiến người ta phải t́m ra nguyên ủy. Nguyên văn thánh
kinh viết: Quiconque détruit une seule vie israelite est considéré par lÉcriture
comme ayant détruit un monde entier. Et quiconque sauve un seul Israélite est
considéré par l Écriture comme sil avait sauvé un monde entier. (Kẻ nào hủy diệt
đời sống chỉ một người Do Thái, theo Thánh Kinh cũng coi như đă hủy diệt toàn
thể thế giới. Kẻ nào cứu chỉ một người Do Thái , theo Thánh Kinh, coi như đă cứu
ṭng thể thế giới). (traité Sanhédrine 4,5).
Câu này đă được Jacob Neusner dịch sang Anh Ngữ, ấn hành do Yale University
Press, 1988., nguyên văn như sau: Whoever destroys a single Israélite soul is
deemed by Scripture as if he had destroyed a whole world. And whoever saves a
single Israelite soul is demmed by Scripture as if he has saved a whole world.
Trong quyển Dictionnaire encyclopédique de Judaisme, chữ Juif (Do Thái) đă được
giấu đi, thay bằng chữ người cho bớt chói tai. Ngoài ra, người ta c̣n t́m thấy
câu nói trên của ông đạo sĩ Do Thái đă từng khắc trên những tấm huy chương bằng
bạc, để trao tặng cho những người goyim ô uế, ngoại chủng (!) đă có công cứu
sống người Do Thái, nhiều nhất trong thời đệ nhị thế chiến. Nhưng tại sao người
Do Thái lại phải giấu nhẹm chữ Do Thái của Thánh Kinh, thay vào chữ người? Chắc
chắn, ngày nay đă có người Do Thái biết xấu hổ phần nào với lương tâm về sự kiêu
căng hợm hĩnh lố bịch quá đáng của dân tộc ḿnh ?!
Nhưng, tất cả những điều trên đây có lẽ chỉ là giả thuyết, v́ nh́n vào thực tế
và thời sự thế giới chứng minh, cho đến bây giời người Do Thái vẫn c̣n đặt hết
niềm tin vào thánh kinh, và ông trời Do Thái của họ.Trước năm 1948, mỗi ngày
người Do Thái nào cũng cầu nguyện câu: Năm tới về Jérusalem!. Quả nhiên đến ngày
14.5.1948, dân Do Thái đă trở về được Jérusaelm để lập quốc. Đó là mục tiêu nhỏ.
C̣n mục tiêu lớn làm làm vua khắp cơi thế gian và đè đầu cỡi cổ toàn thể bọn
người goyim xú uế, không thuộc chủng Do Thái , mà ông trời Yahweh khát máu, dă
man đă phác họa trong thánh kinh đến bao giờ trở thành hiện thực?
Căn cứ trên các cuộc chiến tranh hận thù có tính cách tôn giáo giữa thế giới Ả
Rập với các nước thuộc chủng Anglo-Saxon, hiện nay đang diễn ra khốc liệt khắp
nơi trên thế giới, ta thấy hầu như người Do Thái đang âm mưu ngấm ngầm thực hiện
ước vọng của Thánh Kinh. Chủng Anglo-Saxon này chẳng khác nào anh chàng vơ sĩ
khổng lồ, mang tên Anh, Mỹ, Úc v.v..., nhưng bộ năo đă bị giống siêu vi khuẩn Do
Thái độc hại đục ruỗng hết rồi!
Để dẫn chứng, thiết tưởng nơi đây tôi cần nói thêm cho rơ về mối tương quan giao
hảo giữa Mỹ, Do Thái và các nước Ả Rập. Xuyên qua các biến cố trọng đại trong
mấy năm gần đây trên thế giới, ai cũng thấy Mỹ đă công khai đứng hẳn về phía Do
Thái, gắn bó với Do Thái như khúc ruột không thể xa ĺa. Mỹ đă mạnh mẽ yểm trợ
Do Thái, cung cấp tiền bạc dồi dào, đầy đủ vơ khí tối tân, trong tất cả mọi cuộc
chiến mà Do Thái đă gây ra với các nước láng giềng trong vùng. Mỹ không hề tạo
một chút áp lực nào đối với chánh phủ Do Thái, về việc phải trao trả lại cho dân
Palestine những vùng đất chiếm đóng bất hợp pháp từ năm 1967, để cải thiện đời
sống khổ sở dưới sự đàn áp giết chóc, tàn phá dă man của Do Thái.
Năm 1991, Mỹ, đă vội vàng đem quân qua vùng vịnh trừng phạt Irak về tội xâm lăng
Kuwait. Trong khi đó, ngược lại, Mỹ vẫn tiếp tục che chở và bảo vệ Do Thái trong
các cuộc xâm lăng, chiếm đóng bất hợp pháp hai vùng Cijordanie và giải Gaza của
Palestine, khiến cho nền an ninh toàn vùng luôn luôn bị sôi động, và t́nh h́nh
thế giới sôi nổi hằng ngày v́ những cuộc giết chóc tàn bạo giữa đôi bên. Giữa
lúc tôi đang viết những ḍng này, th́ tổng thống Mỹ Geroge W Bush đang tiếp tục
nối gót cha, xua quân đánh phá Irak, dưới danh nghĩa giải phóng Irak khỏi ách
độc tài khát máu của TT Sadam Hussein; nhưng đồng thời vẫn đỡ đầu cho Ariel
Sharon, một tay đồ tể Do Thái khát máu giết dân Palestine, và tha hồ xâm lăng
cắm dùi trên lănh thổ Palestine!...
Trên đây không phải chỉ là ư kiến của cá nhân tôi. Hơn thế, chính Ủy Ban Nhân
Quyền thuộc Hội Đồng LHQ, ngày 15. 4. 2003 (theo tin AFP và Ritzau) đă phải lên
tiếng kêu gọi Do Thái nên chấm dứt hành động chiếm đóng cắm dùi trong lănh thổ
Palestine. Bản lên tiếng này c̣n tố cáo Do Thái đă vi phạm trầm trọng các thứ
luật quốc tế, cản trở ḥa b́nh ở Trung Đông. Bằng một cuộc bỏ phiếu riêng rẽ Ủy
Ban Quốc Tế Nhân Quyền đă mạnh mẽ lên án hành động xua quân chiếm đóng , có tính
cách xâm lăng của Do Thái trong lănh thổ Palestine, là một sự chà đạp lên tinh
thần nhân đạo và rơ ràng dày xéo trắng trợn nhân quyền.
Các nước trong cộng đồng chung Âu Châu (EU) cũng nêu lên một nghị quyết phê b́nh
nặng nề hành động cấm đoán trong các thành phố thuộc vùng Tây ngạn (sông Jordan)
và dựng lên bức tường an ninh bao bọc chung quanh Do thái. Cả hai nước Mỹ và Do
Thái đều cho rằng bản nghị quyết này là thiển cận!
Hơn thế, Mỹ c̣n tỏ ra bao che Do Thái hơn cả Yahweh, bằng cách dùng bá quyền để
cho Do Thái được trang bị vơ khí nguyên tử. Hiện nay Do Thái đă có khoảng 100
-200 đầu đạn nguyên tử với tầm phóng xa đến 1.500 cs. Trong khi đó các nước
trong vùng Trung Đông không một nước nào được phép sản xuất loại vơ khí chiến
lược này!
Chính lập trường chính trị thiên vị, trắng trợn bao che Do Thái của Mỹ (chẳng
khác nào thái độ của Yahweh trong thánh kinh!) đă tạo nên biến cố ngày
11.9.2001, tại Nữu Ước, đồng thời cũng là câu trả lời chính xác nhất cho vấn
nạn: Nước Mỹ giàu mạnh nhất thế giới, có dân chủ, tự do, tôn trọng nhân quyền,
và thường hào hiệp giúp đỡ nhân đạo; nhưng tại sao đại đa số nhân loại, khắp nơi
trên thế giới đều không ưa Mỹ, thù ghét Mỹ chẳng khác nào thù ghét Do Thái?...
Tóm lại, với bản chất kỳ thị, gian tham, độc ác và khát máu, đă bị thánh kinh
nhồi sọ tự ngàn xưa, những ai không thuộc chủng Do Thái (les non-juifs), chẳng
bao giờ nhận được chút cảm xúc (đừng nói đến cảm t́nh!) nào của họ. Đơn cử một
thí dụ điển h́nh trong lịch sử văn hóa nhân loại: Ngày xưa, khi thành Troyes
thất thủ, quân Hy Lạp và Euripide tràn vào đốt phá tan tành, đồng thời hăm hiếp
và tàn sát tất cả quần chúng trong thành. Thương cảm sâu xa cho số phận của
những người đàn bà và trẻ con trong trận cướp phá và tàn sát dă man ấy, đại thi
hào Homère, người Hy Lạp, đă viết nên những ḍng thơ ai oán, năo nùng, bi thiết
trong các tác phẩm Les Troyennes, và Andromaque, khiến dân chúng thành Athène ai
cũng phải nghẹn ngào rơi lệ...
Những rung động của lương tâm con người như thế, dù chỉ một chữ nhỏ bé, cũng
không bao giờ ta có thể t́m thấy được trong thánh kinh Do Thái. Ngược lại, chỉ
thấy toàn những tṛ lừa lọc đảo điên, mánh khóe gian tham, hành động dă man, tàn
ác...Thậm chí cả đến ông trời Do Thái Yahweh cũng tỏ ra là một tên phàm phu tục
tử, khát máu hạng nặng. Chính Yahweh đă đích thân ra lịnh cho Do Thái tàn sát
tất cả cư dân trong các thành phố ở Canaan (tức Palestine bây giờ), tiêu diệt
hết cả đàn bà lẫn trẻ con... Ông ta c̣n tàn bạo đến độ luôn mồm hăng say đốc
thúc, nhắc nhở bọn sát nhân Do Thái không được thương sót!
V́ thế trong cuộc chiến ở Jéricho, do Yahweh đốc thúc, toàn thể dân chúng trong
thành, cả đàn ông lẫn đàn bà, trẻ con và già lăo, thậm chí đến các loài gia súc
như: ḅ, trừu, lừa, ngựa... đều không thoát khỏi bị gươm đao của Do Thái phanh
thây đổ ruột. (Jos, 6,21).
Nếu đối chiếu những cuộc tàn sát này với những cuộc tàn sát của Hy Lạp, cùng
thời đó, ta thấy có một điểm khác nhau quan trọng: Trong khi Do Thái giết người
v́ lư do tôn giáo, v́ hận thù chủng tộc vu vơ (phân biệt Tịnh và Bất Tịnh), th́
Hy Lạp chỉ trừng trị những thành phố nổi loạn v́ lư do chính trị, và nhất là
không tàn sát đàn bà trẻ con, chỉ bắt họ làm nô lệ mà thôi!
NGÀY YAHWEH PHÁN XÉT
Như trên đă tŕnh bày, theo thánh kinh Do Thái, Yahweh tiếm xưng là thượng đế
(Élôhim) của toàn thể nhân loại, và đặc biệt ưu đăi dân Do Thái. V́ thế, ta
không lấy làm lạ khi ông trời này chỉ bênh vực và bảo vệ dân Do Thái. Nhưng c̣n
đối với các chủng tộc khác th́ sao? Chính ông ta đích thân chỉ huy các cuộc tắm
máu tàn sát tất cả. Đây là một đoạn thánh thi của Joel, đă mô tả Ngày của Yahweh
(le Jour de Yahweh), viết vào khoảng 400 năm trước kỷ nguyên này, nguyên văn như
sau:
Je produirai des signes dans le ciel et sur la terre,
sang, feu, colonnes de fumée.
Le soleil se changera en ténèbres,
la lune en sang,
avant la venue du Jour de Iavhé,
grand et terrible! (...)
Oui, en ces jours- là, en ce temps-là,
quand je rétablirai Juda et Jérusalem,
je rassemblerai toutes les nations
et les ferai descendre à la Vallée de Josaphat;
là, jentrerai en jugement avec elles
au sujet dIsrael, mon peuple et mon héritage (Di 3, 3-4 và 4, 1-2).
Tạm dịch:
Ta ra dấu khắp trời và đất,
máu tràn, lửa, khói bốc cao ngất.
Mặt trời sẽ trở nên u ám,
Mặt trăng sẽ nhuộm đỏ máu hồng,
trước cái ngày Da Vế* giáng lâm, ( Iavhé, tức Yahweh viết thep văn ngôn Pháp)
vĩ đại và khủng khiếp vô cùng!(...)
Phải, những ngày ấy, trong thời gian đó,
khi ta tái lập đền Sa Lem* , thành Du Đa* ( Jérusalem và Juda)
ta sẽ tập họp mọi quốc gia
đày xuống thung lũng Dô Sa Pha* ( Josaphat)
Nơi đó, ta sẽ đem ra xử
vịêc Do Thái, hậu duệ của ta. (Di 3, 3-4 và 4,1-2)
Theo Joel, cuộc phán xét này của Yahweh không phải là cuộc phán xét cuối cùng.
Joel không tin có một kiếp khác sau khi chết, không tin cả chuyện định công luận
tội, phân biệt thiện ác của mỗi người, để cho đi đầu thai kiếp khác. Trong bài
thơ này, như Yahweh đă nói, sự phán xét chính là sự trừng phạt nặng nề của ông
ta sẽ dành cho các dân tộc thù nghịch của Do Thái. Hiện nay, chúng ta, loài
người cả thế giới đang chứng kiến mối hận thù tranh chấp mơ hồ, vu vơ, đầy ảo
ảnh (fantasme) của giống người Do Thái đối với toàn thể thế giới. Cuộc đụng độ
này sẽ là một cuộc tắm máu kinh hoàng. Ông trời Yahweh Do Thái thách thức cả bọn
goyim ngoại chủng bằng những câu thơ như sau (Chú ư: từ đây tôi chỉ dịch trơn
theo thánh kinh, không chuyển thành thơ):
Hăy công bố điều này cho các nước biết:
Các ngươi hăy tuyên chiến đi!
Các ngươi hăy động viên dũng sĩ đi!
Để cho chúng tiến tới, chúng bước lên,
Hỡi tất cả bọn chiến sĩ!
Hăy dùng lưỡi cày làm gươm,
và dùng dao quắm làm giáo! (DI 4, 9-10).
Thực là khủng khiếp. Một đại thảm họa của nhân loại. Bọn goyim toàn cầu chắc
chắn sẽ bị trừng trị ác nghiệt, và dân Do Thái sẽ vĩnh viễn được ưu đăi. Đây là
một đoạn thánh thi nữa:
Mặt trời mặt trăng bị tối sầm,
Các v́ tinh tú không c̣n chiếu sáng.
Iavhé gầm thét to lên ở Sion,
và ở Jérusalem, để cho mọi người cùng nghe được tiếng của ngài
làm cho đất trời rung chuyển!
Nhưng Iavhé vẫn là chỗ ẩn náu an toàn cho con dân của ngài,
là một thành tŕ kiên cố của những đứa con Do Thái.
Khi đó, các người sẽ biết ta là Iavhé, là thượng đế Élôhim của các ngươi, ngự
trên đỉnh núi Sion, ngọn núi thần thánh của ta!
Jérusalem sẽ trở thành nơi thánh địa,
và bọn ngoại nhân không c̣n bao giờ được lai văng đến đó nữa! (DI 4, 15-17).
Thêm vào đó, thánh kinh Do Thái c̣n tiên tri viễn kiến:...Trong khi cuộc tàn sát
cảnh rối loạn kinh hoàng xảy ra, bọn goyim, nếu không bị Do Thái giết chết với
sự trợ lực của Iavhé, chúng sẽ quay lại tàn sát lẫn nhau, cuối cùng chúng để lại
vô số chiến lợp phẩm.
... Những tài nguyên giàu có của tất cả mọi quốc gia chung quanh đều được gom
hết lại: vàng , bạc, quần áo vô số kể. Sau đó, bọn sống sót của các quốc gia đă
từng chống lại Jérusalem, hằng năm phải cúi đầu khúm núm bước qua trước mặt vua
Iavhé và ca tụng lễ của người chiến thắng...(V 14-17).
Sau khi đă tắm máu bọn goyim rồi, ông trời Iavhé Do Thái trở thành số 1, độc
nhất vô nhị. Danh tiếng trở nên độc đáo, Yahweh lên ngôi vua cai trị toàn thể
thế giới. Tuy vậy, đấng Yahweh, thượng đế của Do Thái, vẫn chưa thỏa măn thú
tính. Tên cuồng đạo Do Thái khát máu, cực kỳ háo danh này c̣n tỏ ra cực kỳ ác
độc như chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, chủ trương vẫn tiếp tục trả thù
các dân tộc đă từng chống lại dân Do Thái: Bọn goyim đều bị Iavhé hành hạ vô
cùng dă man: Da thịt của chúng bị rữa thối ra trong khi chúng đang đứng trên đôi
chân của chúng; đôi mắt của chúng thối rữa trong lỗ mắt (orbite), và cái lưỡi
của chúng bị thối rữa trong miệng chúng . (Il fera pourrir leur chair tandis
quils seront debout sur leurs pieds; leurs yeux pourriront dans leurs orbites et
leur langue pourrira dans leur bouche), (ZA 14, 3-12).
Sự độc ác như thế của Yahweh trong thánh kinh Do Thái nhiều không kể siết. Trên
đây chỉ là một vài bằng cớ điển h́nh, để chứng minh bản chất vô nhân đạo, hiếu
chiến, khát máu, độc ác, và thù dai đến cùng cực của Do Thái. Giống người này
đúng là một đại họa của nhân loại, như Nietzche đă nói.
Có biết được thực chất dă man ấy của thánh kinh Do Thái, ta mới nhận ra được giá
trị đích thực vô song của Jésus Christ, với sự hy sinh đau đớn của ngài trên cây
thập tự giá. Mặc dù gốc Do Thái, và là một Rabbin nghiên cứu thánh kinh Du Già
giáo, ngài đă chẳng quản hiểm nguy, đơn độc đứng lên ly khai đạo, lớn tiếng dơng
dạc rao giảng công bằng, bác ái, và t́nh thương nhân loại, không kỳ thị chủng
tộc và không phân biệt tôn giáo.
Ngài nói: Các ngươi không nên tích lũy tài sản trên thế gian, loài côn trùng,
mối bọ sẽ làm tiêu tan hết, bọn đạo tặc khoét vách, đục tường vào lấy hết. Nhưng
các ngươi nên tích lũy tài sản trên nước trời (Mt 6, 19-20). Ngoài ra, ngài c̣n
nói thêm:Một con lạc đà chui qua lỗ kim c̣n dễ hơn một kẻ giàu vào vương quốc
nhà trời. (Mt 19, 24; Mc 10, 25; Lc 18, 25).
Những lời đó của Jésus Christ đă gợi lên t́nh thương yêu thượng đế và t́nh
thương nhân loại trong ḷng các tín đồ của ngài. T́nh thương của Thượng Đế dành
cho con người đủ mọi chủng tộc, không phân biệt, chẳng ưu đăi một giống dân nào.
Mọi người đang sống trên thế gian đều được hưởng t́nh yêu thương của thượng đế
bằng nhau. Trước Thượng Đế mọi người đều b́nh đẳng, đàn ông cũng như đàn bà,
người tự do hay kẻ nô lệ, không kể bất cứ chủng tộc nào. Điều này thánh Paul đă
viết nguyên văn: Không có nô lệ, không có người tự do, không có đàn bà, không có
đàn ông, bởi v́ tất cả chúng ta đều là một trong chúa Jésus-Christ. (Gal 3, 28).
Như thế, chúa Jésus và thánh Paul cùng các môn đồ của chúa đă phá tan tṛ độc
quyền, độc chiếm ông trời của dân Do Thái, lột bỏ quốc tịch Do Thái của Yahweh,
đem ông trời ra phân phát đều khắp cho các giống người vốn bị các đạo sĩ Rabbins
Do Thái coi như ô uế, phải lánh xa...Đó là hành động phản kháng đạo Du Ǵa và
chống lại cả một tập đoàn tôn giáo gian tham, độc ác. Như thế, Jésus Christ cũng
chẳng khác nào Phật Thích Ca. Trước khi được các đệ tử tôn vinh lên làm giáo
chủ, lấy tên ngài làm danh hiệu của đạo, Jésus Christ đă là một nhà cách mạng xă
hội, một chiến sĩ đấu tranh giải phóng tư tưởng của con người. Ngài đă đem t́nh
thương của con tim chống lại với chủ trương khát máu, nuôi dưỡng hận thù dai
dẳng của đạo Du Già và đa số dân Do Thái cuồng đạo mù quáng.
V́ thế, người Do Thái đă mượn tay viên Thái Thú La Mă, Pontius Pilatus, để trả
thù và giết ngài một cách cực kỳ đau đớn. Sau khi đă bị tra tấn đủ mọi cực h́nh
dă man, Jésus Christ c̣n bị đóng đinh trên cây thập tự giá, để chết lần chết ṃn
theo từng hơi thở. Đó là thủ đoạn, chúng ta thường gọi nôm na là mượn đao giết
người rất thâm độc và hiệu nghiệm.
Về sau, điều này đă tạo nên mối hận thù sắt máu, kéo dài hàng mấy ngàn năm, giữa
Do Thái và TCG, và dân Do Thái đă bị tín đồ TCG cáo buộc tội giết chúa
(déicide).
Bây giờ, thời thế đă đổi thay, Do Thái không cần dùng đến thủ thuật mượn dao
giết người nữa, mà đă biến thành một loại HỒ LY TINH cực kỳ nguy hiểm cho nhân
loại. Sau nhiều lần thảm bại ở Nga Sô, thời Nga Hoàng, thời Stalin, và ở Đức,
thời Hitler, Con Hồ Ly Tinh Do Thái đă rút được bài học kinh nghiệm đẫm máu là
không thể nào mai phục trong các chế độ độc tài, hay trong các quốc gia thuần
chủng như :Pháp, Đức, Anh...Sớm hay muộn cũng bị lật mặt nạ và bị tiêu diệt.
Nhưng, một quốc gia tạp chủng, lại tôn trọng tự do, và dân chủ như nước Mỹ,
chính là môi trường thuận tiện nhất, là con mồi ngon lành nhất để cho con Hồ Ly
Tinh Do Thái tha hồ thao túng, gấp rút thực hiện lời dạy của Yahweh đă ghi trong
thánh kinh là: phải làm bá chủ thế giới, tóm thâu hết tài lợi trong vũ trụ, trả
thù và tiêu diệt hết bọn ngoại đạo goyim, không chừa một đứa con đỏ!
DÂN TỘC ĐƯỢC ÂN SỦNG
Từ trước đến nay, nhiều người cho rằng dân Do Thái thông minh, đă được thượng đế
đặc biệt ân sủng và ưu tuyển. Nên biết thông minh không phải là một sản phẩm hữu
h́nh, như một cục kẹo, trời riêng ban cho thiểu số dân Do Thái. Nó cũng không có
tầm vóc, hay trọng lượng ước định nào làm tiêu chuẩn. Tất cả chỉ là giả tưởng,
nếu tranh căi sẽ vô cùng. Nhưng, về mặt thực tế, xét trên những thành quả cụ thể
ai cũng phải đồng ư: Cho đến nay, dân Do Thái đă gặt hái được nhiều kết quả tốt
đẹp về các mặt: khoa học, văn hóa, kinh tế, chính trị v.v...C̣n về lâu về dài
trong tương lai số kiếp dân tộc này sẽ ra sao không ai tiên đoán được.
Nơi đây, nhân nói về vấn đề thông minh của dân Do Thái, tôi nhận thấy dân tộc
nào cũng có kẻ thông minh và người ngu dốt, đần độn. Một dân tộc mà nhiều người
thông minh th́ dân tộc đó tiến bộ nhanh hơn. Ngược lại, nếu số người u mê, đần
độn đông hơn , th́ trong cuộc chay đua đường trường, dân tộc đó sẽ bị tụt hậu.
Riêng về dân tộc Do Thái, tôi nhận thấy họ đă chẳng thông minh lắm đâu. Bởi từ
mấy ngàn năm nay, họ vẫn c̣n bị thôi miên v́ hào quang của mấy chữ bịa xạo ngớ
ngẩn trong thánh kinh: mon élu (người được ân sủng của ta, được ta ưu tuyển)
(Isaie 42,1), mon peuple, mon élu (dân tộc của ta, kẻ được ta ân sủng, ưu tuyển)
(Isaie 43, 20), và Israel, mon élu (Do Thái, kẻ được ta ân sủng, ưu tuyển)
(Isaie 45,4), Jai conclu une alliance avec mon élu( Ta kết hợp liên minh với kẻ
ta ân sủng, ưu tuyển) (Psaume 43,20)... khiến cho đôi mắt đầy ghèn nhử tham vọng
của họ bị mù ḷa, rồi sinh ra thói trịch thượng, và gian tham, biển lận. Rồi họ
bước sang giai đoạn quá độ, vô h́nh chung đă tạo ra phong trào Do Thái bành
trướng (Sionisme), khiến phản ứng chống Do Thái (antijudaisme) và diệt Do Thái
bùng nổ khắp nơi, làm cho thế giới liên miên điên đảo. Điều này đă khiến cho đại
hiền triết Nietzche phải lên tiếng công khai kết án: Les Juifs sont le peuple le
plus funeste de lhistoire du monde (LAntéchrist, trg 22) (Bọn Do Thái là một dân
tộc tai họa chết chóc nhất trong lịch sử thế giới).
Những người Do Thái đă không biết rằng một kẻ, hay một dân tộc được ân sủng, ưu
tuyển dù là của Thượng Đế, chẳng qua chỉ là một hạng rất tầm thường. Trước hết
sự ân sủng tố giác kẻ được ân sủng vốn không đủ khả năng tự lực tranh sống với
đời, lại hèn kém, phải nương tựa vào tha lực, phải núp bóng ô dù của Élôhim! Mặt
khác, sự ân sủng, hay ưu tuyển, c̣n chứng tỏ sự thương hại nâng đỡ hoàn toàn do
t́nh cảm cá nhân. Chẳng hạn như: một đứa học tṛ kém đi thi, chắc trượt vỏ
chuối, phải đem tấm nhan sắc quyến rũ của con chị ra làm mồi nhử ông giám khảo
để đường ưu tuyển. Hoặc một anh sĩ quan, văn th́ dốt, vơ th́ nhát, nhưng nhờ có
con vợ đẹp, lẳng lơ, chịu chơi, khiến ông tướng tư lệnh vùng khoái chí ban cho
ân sủng, ưu tuyển vào chức tỉnh trưởng, để được ngồi mát, ăn bát vàng! Như thế
có ǵ đáng để kiêu căng, hợm hĩnh, và hành động trịch thượng?
Theo tôi, nếu trong thánh kinh Do Thái, các chương trên, thay v́ ghi chữ peuple
élu (dân tộc ân sủng của ta), mà ghi là: peuple délite (dân tộc ưu tú), th́ mới
đáng để cho người Do Thái hănh diện phần nào. Bởi chữ élite (ưu tú) chứng tỏ, dù
sao dân Do Thái cũng c̣n có chút khả năng trí lực để tự đối chọi trong cuộc
sống!
Có thể dân Do Thái không thực sự thông minh như tôi đă nói, nên các đời tổ tiên
của họ đă ghi những lời dạy cực kỳ độc ác, khuyến khích tàn sát dă man, thậm chí
phô trương cả những tṛ loạn luân, những tội ác khủng khiếp trong kinhTorah (Cựu
Ước) và Talmuds để nhồi sọ các đời con cháu. Có Lẽ bởi thế, nhà đại hiền triết
Nietzche đă phải công khai kết án: Les Juifs sont le peuple le plus funeste de
lhistoire du monde (Bọn Do Thái là một dân tộc tai họa chết chóc nhất trong lịch
sử thế giới).(trích LAntéchrist, trg 22).
DO THÁI BỊ TÀN SÁT !
Nếu ngày nay, bạn đă có dịp xem phim tài liệu lịch sử thế giới chiếu lại những
cảnh đày đọa và giết chóc người Do Thái trong các trại tù Goulag của Stalin, và
trong các trại tập trung Quốc xă của Hitler, bạn sẽ không khỏi rụng rời. Hàng
dẫy người dài, ṭan là ông già bà lăo, đàn bà và trẻ con...đứng bên miệng hố
chôn tập thể, yên lặng chờ đợi từng tràng đại liên ṛn ră nhả đạn không ngừng...
Dĩ nhiên dưới thời Auguste, hoàng đế La Mă xa xưa, làm ǵ có súng đại liên, làm
ǵ có pḥng hơi ngạt, để giết người tập thể cách nhanh chóng, gọn gàng. Nhưng
hiệu quả của hàng ngàn, hàng vạn lưỡi gươm, và mũi giáo của binh sĩ La Mă cũng
đă tạo được một kết quả tương tự.
Phong trào bài Do Thái và những cuộc tàn sát diệt Do Thái chẳng phải măi đến
thời Nga Hoàng, CS Bochévique Nga Sô, và Đức Quốc Xă Hitler mới xảy ra. Những
cuộc thảm sát Do Thái khủng khiếp như thế vốn xưa cũ như lịch sử THÁNH KINH của
dân tộc này. (Theo tôi, mọi thảm họa đẫm máu và nước mắt của dân tộc Do Thái
trải dài hàng mấy ngàn năm nay đều bắt nguồn từ những lời dạy trong THÁNH KINH!
)...
Khởi đầu là kiếp nô lệ cơ cực , nhục nhằn của dân Hébreux, ở Ai Cập, đă từng bị
hoàng đế Pharaon đối xử dă man, biến cải các công trường lao động thành những
trại tập trung khổ sai khổng lồ. Nỗi khổ nhục, bị đàn áp, giết chóc vẫn tiếp tục
bám theo dân Do Thái như bóng với h́nh măi cho đến thời kỳ bị lưu đày viễn xứ ở
Babylone. Trong hai thời kỳ ấy, tuy đă không xảy ra những cuộc tàn sát qui mô
tập thể, nhưng thánh kinh vẫn ghi nhận đầy rẫy tang tóc, chết chóc thảm thương,
và ngập tràn nước mắt. Trong ngôn ngữ và văn tự Do Thái, danh từ Shoah dùng để
mô tả sự tàn phá, hủy diệt bằng đôi tay của con người, nhưng phải được nhận thức
ngầm là do Thượng Đế trừng phạt tội lỗi của dân Do Thái.
Một bước thêm nữa , đến khoảng năm 170 trước TC, khi vua Hy Lạp Antiochus IV
Epiphane muốn dẹp bỏ đạo Du Già và nghiêm cấm tất cả mọi h́nh thức cúng tế, đặc
biệt kể cả tục cắt da bọc qui đầu con trai, anh em nhà Maccabée đă kêu gọi quần
chúng nổi lên kháng cự, mở màn cho những cuộc tàn sát đẫm máu cực kỳ khủng
khiếp, đến nỗi về sau tên maccabée đă trở thành một danh từ đồng nghĩa với xác
chết, rất thông dụng trong giới y khoa.
Đến khoảng thế kỷ thứ nhất sau TC, một cuộc tắm máu kinh hoàng khác đă xảy đến
cho dân Do Thái, mà sử gia Flavius Josèphe gọi là cuộc chiến của Do Thái chống
lại quân cai trị La Mă. Lập tức quân La Mă mở những cuộc đàn áp thẳng tay, với
sự trợ lực của tập thể quần chúng địa phương, phần nhiều là dân Syrie, biến
thành những cuộc tàn sát tập thể đẫm máu, với số tử vong lên đến hàng mấy trăm
ngàn người!
Đến năm 70 sau TC, thành phố Jérusalem và ngôi đền Do Thái (Temple) đă bị san
bằng thành b́nh địa. Đến năm 132 sau TC, cuộc dấy binh nổi loạn của Bar Kokheba
đă gây nên một làn sóng tàn sát khác nữa, các làng mạc đều bị triệt hạ, biến cả
vùng Judée thành một xứ bị tiêu hủy hoàn toàn, tiếng Do Thái gọi là SHOAH.
Sau cuộc thảm sát này, những người Do Thái c̣n sống sót đă âm thầm bỏ nước
Israel ra đi lưu vong khắp bốn phương trời măi cho đến 19 thế kỷ sau mới có cơ
hội trở về lập quốc (năm 1948).
Trong thời gian sống phân tán (tiếng Do Thái: diaspora), dân Do Thái vẫn tiếp
tục bị các tín đồ Hồi Giáo, và TCG trên thế giới thanh toán, giết chóc không
thương tiếc. Đặc biệt đáng kể nhất là những pogroms đă xả ra dưới thời Nga
Hoàng, và génocides dưới thời Hitler.
Đến đây, dù muốn dù không ai cũng phải tự đặt câu hỏi để t́m lời giải đáp về khả
năng của ông trời Yahweh: Tại sao Thượng Đế toàn năng lại để cho dân tộc Do Thái
ân sủng của ngài bị tàn sát thảm hại như vậy?.
Có hai cách trả lời: Trước hết và dễ dàng, đơn giản nhất: V́ ông trời Yahweh chỉ
là một bịa xạo của những bộ óc hoang tưởng bịnh hoạn!
Kế đến là câu trả lời có tính cách kinh điển kiểu b́nh dân học vụ và tín ngưỡng
mù quáng: V́ dân tộc này đă phạm tội, nên bị Thượng Đế trừng phạt!
- OK! Nhưng dân Do Thái đă phạm tội ǵ có tính cách tập thể và nặng nề đến nỗi
bị Thượng Đế phải ra tay tàn sát cả vùng, tiêu diệt mỗi lần hàng trăm ngàn, hàng
trịêu nhân mạng , kể cả đàn bà, trẻ con vô tội. Gần đây nhất là vụ diệt chủng
lớn lao đến trên 6 triệu người Do Thái ở Âu Châu?...
Theo tôi, sở dĩ đă xảy ra những phong trào bài Do Thái, và tiêu diệt Du Già Giáo
tàn bạo đến như thế, v́ nó đă bắt nguồn rất sâu xa trong lịch sử tôn giáo của
dân tộc này. Các phong tục và tập quán cổ của Do Thái đă không thích nghi được
với các nền văn hóa, tín ngưỡng khác, hoặc người Do Thái không chịu ḥa hợp hay
không chấp nhận luật lệ của các quốc gia khác. Như trường hợp La Mă đă phải đàn
áp những cuộc nổi loạn của Do Thái ở Ai Cập, ở Libye hay ở đảo Chypre. Tất cả
những cổ tục về lễ Sabbat, về việc cắt da bọc qui đầu con trai (circoncision) và
kinh Torah, tôn thờ một ông trời độc nhất vô nhị, vô luân, hiếu chiến, hiếu sát
cách dă man, tự xưng bá chủ hoàn cầu... Tất cả những thứ đó là nguyên nhân chính
yếu đă đẩy các lớp con cháu của ông tổ Abraham tới cuộc đối đầu một sống một
chết với hậu duệ của Romulus!
Đến thời Đức Quốc Xă (khoảng thập niên 1930 40), mặc dù người Do Thái đă sinh
sôi nảy nở và trở nên giàu có ở xứ này không biết bao nhiêu đời rồi, nhưng họ
vẫn không bao giờ chịu coi nước Đức là quê hương và dân tộc Đức là đồng bào của
họ. Lối sống đồng sàng dị mộng và sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi của họ
trong xă hội Đức hằng ngày đă chồng chất, tích lũy theo năm tháng, kết tinh
thành thù hận chủng tộc và kỳ thị tôn giáo, khiến vết thương cũ của lịch sử lại
có dịp toác ra!...
Nên nhớ: trong thánh kinh, Yahweh của họ đă dạy họ:Thượng Đế ra lịnh cho Israel
khi lâm chiến phải giết tất cả kẻ thù bằng gươm đằng lưỡi. (au tranchant de
lépée)[ ngụ ư: giết cho chết, không nương tay]. Và thậm chí đến nỗi không để một
sinh vật nào sống sót (ne laisser subsister aucun être vivant)! (
Deutéronome)(ch.20).
Theo tôi, những lời dạy như thế của Yahweh trong thánh kinh chính là những lời
nguyền tự diệt chủng của dân Do Thái đấy! Ta nên lấy đó làm gương! |