Những cái gương can đảm của các
binh lính trong đạo quân Kamikaze quyết tử của quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản đốt
nén nhang lên đường sáng hôm 7 tháng 12 năm 1941 để tấn công hạm đội Hoa Kỳ tại
Trân Châu Cảng làm con trai tôi tự hỏi v́ sao họ lại như thế khi tôi cùng các
con xem cuốn phim tài liệu chiến tranh "Pearl Harbor" do đạo diển Michael Bay
dàn dựng. Sau khi liệng hết bom, bắn hết đạn, từng chiếc phi cơ của phi đội quyết
tử Thiên Hoàng nhắm vào các boong tàu hải quân Hoa Kỳ cứ lao vào như điên dại.
Nước Mỹ sững sờ, nước Mỹ rúng động, và nước Mỹ đau thương trong trận Trân Châu
Cảng.
Từ sự đau thương đó đến 4 năm sau nước Mỹ nhất quyết kết thúc chiến tranh mau lẹ
bằng đường tắt ném hai quả bom nguyên tử vào ngay trung tâm thành phố Hiroshima
và Nagasaki, số thương vong của người Nhật là 66,000 và bị thương 69,000 tại
Hiroshima, và 39,000 chết và 26,000 bị thương tại Nagasaki. Hằng triệu người
Nhật ngơ ngác trong cơn chấn động khủng khiếp của bom nguyên tử vốn xa lạ với
con người thuở đó. Nước Nhật kinh hoàng, nước Nhật giận dử và nước Nhật đau thương.
Để tránh thêm thiệt hại và chết chóc cho nhân dân vô tội, ngày 2 tháng 9 năm
1945 Nhật hoàng Hirohito kư hoà ước chấp nhận thua trận vô điều kiện trên chiếc
hàng không mẫu hạm USS Missouri. Tin buồn đến với quân đội Nhật, hàng ngàn binh
sĩ Nhật từ chối thua trận và những thước phim lịch sử đă thu nhận tinh thần dũng
sĩ quả cảm của người lính Nhật, mặc dù thế giới lên án sự dă man của quân đội
Nhật trong thời chiến tranh. Nhưng người ta không khỏi bùi ngùi, thương tâm khi
thấy trong tinh thần samurai của kiếm sĩ đạo kendo hay vơ sĩ đạo bushido, người
lính thất trận tự đâm và mổ bụng chính ḿnh, theo truyền thống harakiri, v́ danh
dự họ từ chối đầu hàng. Chỉ trong vài ngày sau khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng
các đơn vị quân đội Nhật Bản ghi nhận gần 600 binh sĩ Nhật tự vận và con số tiếp
tục, số binh sĩ tự vận tại hải ngoại không đuoc kiểm kê. Trong hàng tướng lănh
của Nhật có bộ trưởng chiến tranh Korechika Anami, tướng Seiichi Tanaka, tướng
Hajime Sugiyama, tướng Umetzu, đô đốc Hải quân Ugaki và đô đốc Takijiro Onishi
đă tự rút gươm đâm thủng bụng ḿnh tự sát, họ để lại cho quân sử Nhật bản những
tấm gương samurai bất khuất măi măi.
Cũng chuyện ngày xưa của nước Tàu, trong thời xuân thu chiến quốc, chuyện kể rằng
một vị tướng quân thua trận, ông và người hầu cận bị đánh đuổi bỏ chạy lên núi
cao. Hết ngày này qua ngày nọ, hết tháng này sang tháng kia, ông cảm thấy ô nhục
măi ẩn náu trên miền cao sơn và ngày về vô vọng, ông từ chối chết dần, chết ṃn.
Ông bảo người hầu cận chuẩn bị cho ông con chiến mă. Sau khi khoác chiến bào với
thanh kiếm trên tay như thuở xông pha nơi chiến trận, ông thúc chiến mă phi bay
từ cao sơn rơi xuống vực sâu thẳm để chọn cái chết xứng đáng cho đạo làm tướng.
Câu chuyện này nói lên cái ư niệm đơn giản: Là ngừời lănh đạo, chỉ huy phải tṛn
trách nhiệm với sơn hà, là một tướng quân là giữ phong cách, danh dự và sĩ khí
của người làm tướng mà phong vị của họ gầy dựng do công trạng "Nhất tướng công
thành vạn cốt khô".
Do đó từ những phi đội thần phong quyết tử hay những bushido hay kendo đă
harakiri của người Nhật cho đến viên tướng Tàu trong thời tao loạn xuân thu thuở
xưa chỉ nêu lên cái giá trị của người Đông phương liều chết cho lư tưởng mà họ
mang để quên thân ḿnh. Như lịch sử Việt Nam không thiếu gương can đảm từ Trần
B́nh Trọng, Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương,... Tôi bùi ngùi nhớ về các vị Nguyễn
Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai, Lê Nguyên Vỹ, Hồ Ngọc Cẩn,...
mang cái "Dũng" của người xưa.
Nói những ḍng này như vậy để tôi cũng xin khơi lại ḷng dũng cảm của vô số anh
hùng vị quốc vô danh trong QLVNCH mà những ngày cuối cùng của trang sử miền Nam,
tổng thống của họ v́ sợ nhân dân vô tội chịu cơn mưa đại pháo của "cái-gọi-là"
Quân đội Nhân dân Việt Nam (QDNDVN) man rợ, vô nhân tính xâm lăng từ bắc phương,
hàng ngàn chiến binh VNCH đang chiến đấu tới cùng như các Thiên Thần Mũ Đỏ của
binh chủng Dù quyết tử thủ bảo vệ thành tŕ Hoàng Hoa Thám chận sức tiến quân
của địch từ hướng Hốc Môn hay những chiến binh cọp biển của Thủy Quân Lục Chiến
tiếp tục bảo vệ tuyến đường xa lộ Biên Ḥa chận đoàn quân CS tràn về thủ đô. Họ
chiến đấu trong danh dự, họ quyết tử v́ lư tưởng bảo vệ sơn hà, cũng như nhiều
anh em quân nhân khác từ chối thua cuộc cùng nhau rút chốt lựu đạn ôm nhau nổ
tung để chọn cho ḿnh cái chết xứng đáng nhất mà sử xanh của QLVNCH sẽ măi măi
tri ân họ. Sự ra đi hào hùng của ho là cái uy dũng khi bảo vệ từng tất đất quê
hương của quân đội VNCH, tương phản với cái hèn hạ đốn mạt của người CSVN là âm
thầm triều cống đất đai của tiền nhân để lại để được nước đàn anh Trung quốc xoa
đầu cho an vị tiếp tục thống trị quê hương Việt Nam.
Trong bầu không khí 30-04 lại về, tôi xin hân hạnh giới thiệu hai tác phẩm viết
bằng kinh nghiệm đau thương của nhà văn Dương Viết Điền (DVĐ), có bút hiệu là Hạ
Ái Khanh, anh là một sĩ quan ngành chiến tranh chính trị, một tù nhân nếm mùi khắc
nghiệt của cái cụm mỹ từ gọi là "học-tập-cải-tạo", một h́nh thức tù tội bịp bợm
trá h́nh, một phương cách trả thù người quân dân VNCH để ḥng đánh lừa dư luận
quốc tế. Anh DVĐ đă bỏ ra một thời gian dài để hoàn tất hai tác phẩm, loại biên
khảo có giá trị về sử liệu "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân" và thiên hồi kư bi
thương "Trại Ái Tử và B́nh Điền". Cả hai tác phẩm khi đọc người ta không khỏi
ngậm ngùi cho tinh thần bất khuất hay thán phục cũng như cảm thông v́ cái dũng
khí mà những người lính QLVNCH đă kinh qua.
Trong cuốn "Trại Ái Tử và B́nh Điền", tác giả có đề cập một gương bất khuất của
một vị sĩ quan đáng kính QLVNCH là Thiếu tá TQLC Vơ Đằng Phương noi gương theo
tinh thần sống vinh hơn chết nhục, năm 1985 từ trại tù B́nh Điền ông viết thơ
gởi cho Thủ tướng CSVN là Phạm Văn Đồng để tố cáo chính sách thâm độc trả thù dă
man, ngược đăi tù nhân là những quân nhân cán chính VNCH. Trong khi trước đó
Phạm Văn Đồng khoe khoang tuyên bố với các phóng viên quốc tế họ đối xử nhân
đạo, khoan hồng với các viên chức phục vụ trong chế độ cũ và người CS không hề
chủ trương đánh người ngă ngựa. Bài sưu khảo của tác giả DVĐ cho thấy tội ác đê
hèn của nhà cầm quyền CSVN là sự tra tấn, đánh đập tù nhân cho đến chết hay gây
thương tích cho họ lâu dài. Trích đoạn như sau:
"Thiếu tá VƠ ĐẰNG PHƯƠNG:
Biểu tượng bất khuất và kiêu hùng của một sĩ quan Quân lực VNCH (QLVNCH). Nói
đến cuộc bạo động trong tù, chúng ta không thể quên được "Vụ 20 tháng 04 năm
1979" xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung tâm trại "cải tạo" B́nh Điền tại tỉnh
Thừa Thiên. Vụ này do một ban tham mưu gồm 9 sĩ quan của QLVNCH chỉ huy toàn thể
500 tù nhân trong trại vùng dậy đ̣i cải tổ chế độ lao tù.
9 sĩ quan trong ban tham mưu đó là:
- Trung tá Nguyễn Tri Tấn: Trung đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3BB
- Thiếu tá Vũ Ngọc Tụng: Quân Trấn Đà Lạt
- Thiếu tá Phạm Cang: Tiểu đoàn trưởng TQLC
- Thiếu tá Lê Quang Liển: Sĩ quan TQLC
- Thiếu tá Hoàng Hưng: Sĩ quan Bộ Binh
- Thiếu tá Phan Văn Lập: Chi đoàn trưởng Thiết giáp.
- Đại uư Trần Biên: Sĩ quan Truyền tin SĐ5/BB
- Đại uư Nguyễn Thuận Cát: Sĩ quan Biệt Động Quân
- Đại uư Nguyễn Đ́nh Khương: Tiểu đoàn phó TĐ120 Địa Phương Quân, tiểu khu Quảng
Trị...
Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đă bị bọn công an đánh đập một cách bạo tàn đến
găy xương, trào máu, bầm gan, tím ruột. Nhiều sĩ quan đă bị chết trong tù sau
những trận đ̣n dă man vô nhân đạo như Đại uư Nguyễn Văn Báu, Đại uư Nguyễn Thuận
Cát, Thiếu uư Trần Hữu Sơn. C̣n tất cả 9 sĩ quan trong ban tham mưu nói trên đều
bị cùm tay, cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại
phân trại 4 thuộc trung tâm trại "cải tạo" B́nh Điền lúc bấy giờ (20 tháng 04
năm 1979) mới chứng kiến được cảnh công an từ dưới Ty Công An thuộc tỉnh B́nh
Trị Thiên lên tàn sát tù nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền.
Chúng đă dă man, bạo tàn đánh đấm liên tục không biết mệt. Sau khi hành nghề
đánh, đấm, đá, đạp 3 tiếng đồng hồ, bọn Công An "thợ đấm" bắt đầu rút khỏi trại
để lại trong trại 50 tù nhân nằm la liệt, rên la quằn quại trên những vũng máu
như anh Nguyễn Văn Thiện, anh Nguyễn Văn Vy, anh Nguyễn Hữu Ái,anh Đôn, anh
Nguyễn Trung Việt, anh Nguyễn Hữu Tứ, v.v. giống như cảnh ở ngoài chiến điạ
hoang tàn chờ trực thăng đến bốc xác chết và những người bị thương vậy.
Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù nhân trong trại đều
căm thù đến uất nghẹn. Có một sĩ quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận
thù thêm chất ngất. Mang sẵn trong người gịng máu bất khuất và anh hùng Lê Lợi,
Quang Trung, gịng máu kiên cường và dũng cảm của Trần Hưng Đạo, Trần B́nh Trọng
cũng như ư thức được Trách nhiệm, Danh dự và Tổ quốc, anh nguyện dấn thân lao
vào cuộc chiến mới ngay trong ngục tù Cộng sản; Tiếp tục nuôi dưỡng ư chí đấu
tranh đến giọt máu cuối cùng, ngơ hầu mang vinh quang về bồi đắp cho quê mẹ, tô
thắm cho non sông. Bởi v́ anh ta biết rằng, chân lư dù có bị đè bẹp xuống dưới
bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mĩm cười với trời xanh bất chấp cả
thời gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đoạ đày trong kiếp tù tội thêm 10
hay 20 năm nưă, cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên ngang
bảo vệ chân lư đến cùng không một chút nao núng trong ḷng, đó là:
Thiếu tá VƠ ĐẰNG PHƯƠNG, thuộc Lữ-đoàn 258 TQLC/QLVNCH. Nhận thấy Cộng sản đă
đối xử quá tàn nhẫn vơí tù nhân qua chế độ lao tù trong các trại "cải tạo" nhận
thấy Cộng sản đối xử tàn tệ vơí vợ con cuả tất cả các sĩ quan cũng như cuả các
viên chức thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hoà trước đây, nhận thấy Cộng sản sau
khi chiếm được miền Nam vẫn cổ xuư chiến tranh gây hấn Kampuchia làm con dân
nước Việt chết thêm hàng chục ngh́n người, nhận thấy Cộng sản không chịu thực
thi những lời cam kết ḥa giải dân tộc mà vẫn làm cho nhân dân Việt Nam đói khổ
sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam,Thiếu tá Vơ Đằng Phương mặc dầu đang ở trong
ngục tù Cộng sản, quyết định viết một bức thư gởi cho tên Thủ tướng Phạm Văn
Đồng để yêu cầu tên thủ tướng nầy giải toả những vấn đề nêu trên. Anh Vơ Đằng
Phương ở tù lúc bấy giờ đă hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt khoát viết một bức
thư gởi tên Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đại diện cho nhân dân Việt Nam yêu cầu
chính phủ Hà Nội xét lại chính sách hà khắc cai trị nhân dân cuả đảng Cộng Sản
Việt Nam. Chính Đại uư Nguyễn Đ́nh Khương, Tiểu đoàn phó TĐ 120 Điạ Phương Quân,
người đă tham gia vụ 20 tháng 04, đă bị Cộng Sản cùm gần 5 năm mới được thả ra,
đă được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Nội dung bức thư mà
anh Vơ Đằng Phương gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng rất cương trực."
Thơ khá dài, lời lẽ khúc chiết, thẳng thắng, và hợp lư yêu cầu chính quyền CS
hăy thực thi vấn dề nhân đạo và hoà giải dân tộc. Hậu quả của lời kêu gọi từ đáy
ngục này của các tù nhân VHCH là những trận đ̣n trả thù và rồi CS đưa ông Vơ
Đằng Phương ra một ṭa án ngụy tạo và kết án ông thêm 10 năm tù. Trong thời gian
bị giam cầm ông bị đánh đập tàn nhẫn đến mang thương tích. Khi được trả ra khỏi
tù năm 1995 th́ sau đó cơn bệnh nội thương do những trận đ̣n trong ngục tù làm
ông từ trần.
Quyển sách này c̣n kể lại nhiều chi tiết động trời khác của chính sách trả thù
tù nhân rất đê hèn của kẻ chiến thắng mà tác giả là nhân chứng sống trong trại,
ngày nay anh ghi nhận lại để đóng góp thêm cho nguồn sử liệu của quê mẹ Việt
Nam.
xxx
Tôi xin đi sang quyển sách thứ hai mà cựu tù nhân Dương Viết Điền viết, đó là
quyển "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân".
Sách dầy khoảng 430 trang, gom góp nhiều tài liệu về những tấm gương kiêu hùng
sáng ngời của 5 vị tướng tuẩn tiết là Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Phạm Văn
Phú,Trần Văn Hai và Lê Nguyên Vỹ cùng cái chết vô cùng bất khuất của đại tá Hồ
Ngọc Cẩn, một hiện thân của tướng Trần B́nh Trọng trong cuộc chiến ư thức hệ mà
hệ lụy của biến cố đau thương 30-04-1975 vẫn làm cho chúng ta nhức nhối. Sách
được chia ra làm 3 chương chính:
* Chương 1: từ trang 1 đến 13 tác giả luận bàn về Đạo làm tướng, trích dẫn sách
Khổng Minh, các gương bất khuất của tiền nhân Việt Nam trong lịch sử chống Tàu,
kháng Tây.
* Chương 2: trang 41 đến 246, xem như chương một trong hai chính của sách, nói
về cái chết oai hùng của 6 vị sĩ quan cao cấp của QLVNCH.
* Chương 3: trang 264 đến 415, nói về những cái chết tức tưởi, những cuộc tự sát
khác của các quân nhân cán chính VNCH không để lọt vào tay giặc.
CHƯƠNG I:(Trang 1 đến 40)
Tóm tắt chương luận bàn về cái Dũng của người Đông Phương, gồm những điển tích,
gương lịch sử Tàu, Nhật và Việt Nam:
"Một dũng tướng là một vị tướng hùng dũng, mạnh mẽ, can đảm, gan dạ, thấy việc
nghĩa th́ làm ngay, sẵn sàng gánh lấy trách nhiệm trước lịch sử, sẵn sàng hy
sinh v́ chính nghĩa, v́ tổ quốc để bảo vệ danh dự và khí tiết của ḿnh.
V́ vậy, trong thiên thứ bảy, Khổng Minh cũng đă đề cập đến ḷng trung nghĩa của
tướng súy như sau: "Việc binh là việc dữ, tướng súy là người giữ nhiệm vụ nguy
hiểm. Do v́ chí khí cứng cỏi th́ phải thiếu thốn, lầm lỗi, nhiệm vụ quan trọng
th́ nguy hại đến thân thể.".
Hạng tướng mà có ḷng trung nghĩa (một ḷng v́ nước) thường không sợ nguy hiểm,
lầm lỗi và không sợ nguy hại đến thân thể, nghĩa là xem cái chết nhẹ tựa lông
hồng, chỉ biết chu toàn nhiệm vụ giao phó...
Khi phong trào Cần Vương nổi lên, ở miền Trung, cử nhân Mai Xuân Thưởng đă ngạo
nghễ với câu, "Thà làm đoạn đầu tướng quân, chứ không thà làm hàng đầu tướng
quân." Ở miền Bắc, cử nhân Nguyễn Cao đă khoét rún, móc ruột ném vào mấy tên
giặc Pháp rồi cắn lưỡi tự tử, được người đời ca ngợi:
"Thệ tâm thiên địa phi trường xích
Thiết xỉ giang san măn thiệt hồng"
(Rút ruột đỏ phơi tim vũ trụ
Nghiến răng hồng nhai lưỡi non sông)
C̣n ở trong Nam, Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trung Trực, Cử nhân Phan Văn
Đạt, Hồ Huân Nghiệp, thà chịu tử h́nh chứ không bao giờ đầu hàng giặc Pháp."
CHƯƠNG 2: (Trang 41-263)
Tác giả đă tham khảo nhiều tài liệu Việt Nam cũng như ngoại ngữ khi tham khảo
viết sách nàỵ chương hai đề cập đến những tấm gương vị quốc vong thân như tựa đề
sách này. Noi gương những vị anh hùng dân tộc nói trên, vào ngày 30 tháng 4 năm
1975, sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng sản v́ bị Đồng minh Hoa Kỳ phản
bội khi bỏ rơi phủi tay ra đi, nhiều tướng lănh trong Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa
đă tự sát để bảo toàn danh nghĩa của một dũng tướng thời chiến. Tôi xin làm phần
tóm lược như sau:
Nguyễn Khoa Nam: Sinh ngày 23 tháng 9, 1927 tại Thừa Thiên. Tốt nghiệp khóa 3
Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào năm 1953. Là một trong những sĩ quan trẻ tuổi được
vinh thăng cấp tướng lẹ nhất do chiến công. Cấp bậc cuối cùng làm Thiếu tướng.
Giờ cuối trước khi miền nam thất thủ ông là Tư lệnh Quân đoàn 4. Tướng Nam là
một vị tướng cương trực, đức độ, thanh liêm và gan dạ. Sau khi Tổng thống Dương
Văn Minh ra lệnh cho quân đội VNCH buông súng, bàn giao quyền hành lại cho quân
đội Bắc Việt, ông ra lệnh cho quân các cấp hăy trở về với gia đ́nh và ông tự sát
bằng cách bắn vào đầu ḿnh.
Lê Văn Hưng: Sinh ngày ngày 27 tháng 3 năm 1933 tại Hốc Môn. Tốt nghiệp hai
quân trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức và Vơ bị Đà Lạt. Cấp bậc cuối cùng là Chuẩn
tướng, ông có 50 huy chương đủ loại, mà trong số đó có nhiều huy chương cao quí.
Chức vụ cuối là Tư lệnh pho Quân đoàn 4, trú đóng tại Cần Thơ. Năm 1972, Tướng
Hưng lập chiến công anh dũng tại An Lộc. Như Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, ông tự
sát bằng súng để bảo toàn danh dự của QLVNCH. Tướng Hưng có thành tích cương
trực, đạo đức và gan dạ khi chiến đấu.
Phạm Văn Phú: Sinh năm 1929 tại Hà Đông. Ông tốt nghiệp trường Vơ bị Liên quân
Đà Lạt khoá 6. Ông là sĩ quan dù từ thuở chiến trường sôi động Điện Biên Phủ,
năm 1954. Sau cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên khi ông phụ trách làm Tư lệnh
Quân khu 2, ông về Sài G̣n lâm bệnh được điều trị tại Tổng Y Viện Cộng Hoà. Sáng
ngày 29/04/1975 trước t́nh thế nguy ngập của Sài G̣n ông kết liễu đời ḿnh bằng
một liều thuốc cực mạnh.
Trần Văn Hai: Sinh năm 1926 tại Cần Thơ. Ông xuất thân Khóa 7 trường Vơ bị
Liên quân Đà Lạt. Ông là cựu Chỉ huy trưởng binh chủng Biệt Động Quân, cựu Tổng
giám đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Chức vụ cuối của Chuẩn tướng Hai là Tư lệnh Sư đoàn
7 Bộ binh đóng tại Mỹ Tho. Trong khi bàn giao nhiệm sở cho quân thù, ông dùng
súng bắn vào đầu tự sát.
Lê Nguyên Vỹ: Sinh ngày 22 tháng 8, năm 1933 tại Sơn Tâỵ Ông tốt nghiệp khóa 2
trường Vơ bị Địa phương Trung Việt tại Đập Đá, Huế năm 1951. Ông cùng với tướng
Lê Văn Hưng lập công đẩy lui cộng quân ra khỏi An Lộc, tỉnh B́nh Long trong trận
chiến Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972. Chức vụ cuối của Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ là tư
Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Ông là tướng đánh giặc can đảm, kỷ luật và thanh liêm.
Khi được lệnh buông súng, bàn giao nhiệm sở, ông kê súng vào cằm tự sát để giữ
khí tiết của QLVNCH.
Hồ Ngọc Cẩn: Sinh ngày 24 tháng 3, năm 1938 tại Cần Thơ. Ông theo học trường
Thiếu Sinh Quân, theo học khóa 2 Sĩ quan Đặc biệt Nha Trang. Ông giữ nhiều chức
vụ tác chiến trong binh chủng Biệt Động Quân trong giai đoạn đầu đường binh
nghiệp, rồi được biệt phái sang các Sư đoàn 21 và Sư đoàn 9 Bộ Binh. Chức vụ
cuối cùng của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn là Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện. Sau khi lệnh
từ Sài G̣n kêu gọi buông súng ông vẫn c̣n chiến đấu để cuối cùng địch quân vây
bắt và mang ra xử bắn tại Sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8, 1975.
Cái chết của các vị sĩ quan cao cấp này đem lại những đóa hồng tô điểm cho danh
dự và sĩ khí của QLVNCH trong cơn đại hồng thủy đến với VNCH. Vị cố vấn Hoa Kỳ
của Đại tá Hồ Ngọc Cẩn đă phải hối hận thốt lên lời nuối tiếc như sau: "Là một
người Mỹ tôi cảm thấy hối hận để miền Nam Việt Nam bị bức tử và Đại tá Hồ Ngọc
Cẩn bị giết" (Trung tá Craig Mandeville).
CHƯƠNG III: (Trang 264-426)
Ngoài những vị tướng lănh đă tự vẫn nói trên, c̣n có rất nhiều sĩ quan cấp tá,
cấp úy, cấp hạ sĩ quan, binh lính và một số công chức, cảnh sát, cán bộ trong
chính phủ Việt Nam Cộng Ḥa trước đây cũng đă tự sát trong biến cố đau buồn này.
Cho đến hôm nay người ta mới chỉ biết tổng quát khoảng 22 Trung đoàn trưởng,
Liên đoàn trưởng và hơn 100 sĩ quan đă tự sát sau khi miền Nam Việt Nam rơi vào
tay Cộng sản. Trên thực tế con số có thể cao hơn. Sau đây tôi cũng xin được
trích ra hai trường hợp mà tác giả Dương Viết Điền ghi nhận trong chương này:
* The Seven Samurai in VietNam: Theo tài liệu 30-04 trong kho dữ liệu của hăng
Thông tấn Nhật bản Kyodo về "Bảy Hiệp Sĩ Việt Nam". Ngày 30-04-1975 là ngày đau
thương v́ QLVNCH bị bức tử, người lính bị bẻ găy súng bởi chiến lược toàn cầu
của Mỹ thay đổi. Bảy người lính Dù mà trưởng toán là thiếu úy Hoàng Văn Thái tụ
họp tại một bùng binh trong Chợ Lớn, và họ chọn lựa sự buông súng trong danh dự
khi tự kết liễu đời ḿnh sau khi hát xong bài quốc ca VNCH, họ xếp thành ṿng
tṛn, mỗi người tay trong tay một quả lựu đạn, mở chốt một lượt. Một tiếng nổ
chát chúa tiễn biệt họ ra đi v́ danh dự.
* Một trường hợp thứ hai tang thương không kém. theo lời tường thuật của anh
Trung úy Cảnh sát Nguyễn Văn Đ́nh định cư ở Houston chứng kiến tại hiện trường
sự tự sát tập thể của 9 quân nhân Nhảy Dù, họ nằm trong toán bảo vệ Đài Phát
Thanh và Đài Truyền H́nh. Khi lệnh buông súng ban ra toán quân nhân này đă xă
súng bắn vào nhau, xác thân họ tan nát cho sự ra đi nhuốm màu máu anh hùng nhất,
đáng kính nhất của QLVNCH.
Như đă bàn ở phần trên, chương này được kéo dài khi tác giả nêu ra vô số những
gương anh dũng của các chiến binh khắp các binh chủng, và các cán bộ, viên chức
VNCH. Họ là những người con yêu, trung thành với lư tưởng QG, họ nêu cao những
nguyên tắc: Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm. Một khi sứ mạng bảo vệ non sông đất
nước không vẹn toàn, họ chọn sự ra đi trong danh dự. Họ mang cái dũng khí như
những Samurai Nhật Bản, họ trọng danh dự cá nhân. Quân sử VNCH muôn đời sẽ vinh
danh họ.
30-04-2004 này, tôi chọn 2 quyển sách "Trại Ái Tử và B́nh Điền" và "Những Anh
Hùng Vị Quốc Vong Thân" này để tưởng niệm gương hy sinh của bao nhiêu anh hùng
tử sĩ của VNCH. Họ chiến đấu bảo vệ quê hương, họ không hèn, dù bạn bè đồng minh
bỏ họ, người chiến sĩ can trường Hồ Ngọc Cẩn cũng như vô số anh hùng vô danh từ
Dù, BĐQ, TQLC, LLĐB, Thiết Giáp,..., Địa Phương quân, Cảnh Sát QG vẫn c̣n chiến
đấu. Họ biên những trang sử cuối cùng hào hùng nhất cho VNCH, ḷng dũng cảm, cái
hào khí "Chết Vinh Hơn Sống Nhục" này của họ chắc chắn sẽ được ghi nhớ và lưu
danh muôn thuở.
Ôn lại lịch sử cuộc nội chiến Nam-Bắc v́ ư thức hệ dị biệt chính kiến trong thế
kỷ 20, người CSVN vi phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác. Họ ngủ quên trong
giấc mộng làm con cờ thí nhân lực Việt Nam cho chủ thuyết quốc tế hóa CS hay họ
cố bám víu lấy nó làm b́nh phong để sinh tồn. Từ khi quân Pháp bại trận tại mặt
trận Điện Biên Phủ, đảng CSVN thường huênh hoang, bốc thơm cuộc chiến đấu "thần
thánh" của cái QDNDVN (sic), và rằng viên tướng Vơ Nguyên Giáp "thần kỳ" điều
binh khiển tướng,... rồi thêu dệt huyền thoại chiến thắng Điện Biên. Sau khi
CSVN và CS Trung quốc đánh nhau năm 1979, viên Thống tướng Diệp Kiếm Anh của
Trung quốc vén bức màn nhung của lịch sử, ông cho biết toàn bộ chiến lược, chiến
thuật của cuộc diện Điện Biên được thiết kế, bày vẽ tại Bắc Kinh, quân đội Trung
quốc đă tiếp sức nhân lực, vật lực, lính Trung quốc trà trộn vào, họ đă đổ máu
cho sự ngụy tạo nên cái huyền thoại "thần kỳ" của tên tuổi Vơ Nguyên Giáp. Những
năm từ 1965 đến 1974, v́ Hoa Kỳ phong tỏa chặt chẽ cảng Hải Pḥng, nên tàu Trung
quốc chở thẳng vũ khí vào miền nam tiếp tế cho VC. Những mặt trận Ba Ng̣i, Vũng
Rô,... là các chuyến đổ hàng mà HQVNCH chận bắt. Rồi sự kiện quân đội Trung quốc
sang Việt Nam đảm nhiệm vai tṛ yểm trợ tiếp vận chiến trường để Bắc Việt đẩy
quân vào nướng tại chiến trường miền Nam qua chiêu bài "Sinh Bắc Tử Nam".
Chưa hết, hàng ngũ đảng và quân đội nhân dân CSVN thối nát, là một tập đoàn bán
nước, là một hủ mắm khi tin tức t́nh báo quốc tế cho thấy hàng tướng lănh cao
cấp rất tham lam, tranh ăn, đấu đá lẫn nhau từ Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng,
Phạm Văn Đồng, Vơ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, và họ sống bằng xương máu của dân
tộc Việt Nam.
Khi chiếm xong miền nam, tướng Văn Tiến Dũng giành chiến công tung ra quyển sách
"Đại Thắng Mùa Xuân", khoe khoang, khoác lác bẻ cong lịch sử như tṛ hề khi nói
phét "cuộc chiến thần tốc" đánh chiếm miền Nam. Y tự kể công đầu bỏ ra yếu tố
"thần kỳ" Vơ Nguyên Giáp vào sọt rác, v́ đảng CSVN vốn là đám lănh đạo vô liêm
sĩ, tham ăn, tranh giành quyền lực như loài kên kên, ác điểu cấu xé lẫn nhau.
Nhiều tài liệu của giới truyền thông Hoa Kỳ tŕnh bày từ báo chí đến Ti-Vi cho
thấy Ngoại trưởng Henry Kissinger đă đi đêm thương thảo đi đến thoă thuận ngầm
với Lê Đức Thọ tại Paris về việc quân đội Bắc Việt hăy để quân đội Hoa Kỳ rút êm
ra khỏi Việt Nam. Henry Kissinger cũng bay sang Bắc Kinh gặp Mao Trạch Đông và
Chu Ân Lai thương lượng cho những điều kiện trao đổi Trung quốc giúp Mỹ rút quân
và khi Trung quốc xâm chiếm các hải đảo của VNCH th́ Hạm đội Thứ 7 của Mỹ sẽ án
binh bất động, không can thiệp. Lê Đức Thọ và chính trị bộ của CSVN đă nắm chắc
lá bài tẩy từ chính quyền Hoa Kỳ là ư muốn rút quân bằng mọi giá. Mới đây Ti-Vi
Mỹ cho tŕnh chiếu lại buổi điều trần tại Quốc hội Mỹ của một trong những ông
vua phản chiến là John Kerrỵ Sau khi từ chiến trường ở Việt Nam về y trở nên
chống báng, bài bác chiến tranh Việt Nam, chỉ trích chính quyền Mỹ thậm tệ. Điều
mà người Việt QG đau ḷng nhất là đoạn ông kể rằng ông đă bay sang Paris gặp gỡ
và điều đ́nh với Lê Đức Thọ nhiều lần, hai bên thương thảo cho việc Mỹ rút quân.
John Kerry cho Quốc hội Mỹ biết là Lê Đức Thọ cam kết Bắc Việt sẽ không tấn công
Mỹ trong kế hoạch rút lui toàn bộ ra khỏi Đông Dương. Hành động đi đêm của Henry
Kissinger và John Kerry với Lê Đức Thọ tại Paris là cái tát vào sự phét lác của
sách Văn Tiến Dũng, những thoă thuận của các chuyến bay đêm này là những nhát
dao ân huệ mà người bạn Đồng Minh kết liễu số mạng của VNCH.
Từ kế hoạch đánh chiếm tiền đồn Điện Biên Phủ do kiến trúc sư chiến thuật Diệp
Kiếm Anh điều động trên cao năm 1954 cho đến những chuyến bay đêm của Henry
Kissinger tại Paris và Bắc Kinh đưa CSVN đến việc sau này đảng và chính quyền
CSVN phải đem đất đai phía bắc của quê hương mà tiền nhân để lại dâng hiến như
h́nh thức trả nợ cho CS Trung Quốc, cũng như triều cống các hải đảo ngoài biển
Đông qua những hiệp định giữa hai quốc gia. Lịch sử cho thấy người CSVN đội lốt
h́nh hài của Lê Chiêu Thống tân thời, cỏng rắn cắn gà nhà. Họ giỏi đè đầu cưỡi
cổ nhân dân Việt Nam, nhưng lại nhút nhát, khúm núm đi bằng đầu gối trước đàn
anh Trung quốc.
Sách DVĐ cho tôi dử kiện người quân nhân trong QLVNCH là những anh hùng khi
"Quốc gia hưng phong, thất phu hữu trách", họ được đào tạo và phục vụ trong
những đơn vị chuyên nghiệp trong sứ mạng để bảo vệ người dân và quê hương. Trong
khi đó trớ trêu thay cái "Quân đội Nhân nhân Việt Nam" (QDNDVN) là thực thể núp
vú Quân đội Trung quốc từ huyền thoại Điện Biên Phủ cho đến về sau. Xuyên qua
bao tài liệu về cuộc chiến Việt Nam gần đây phanh phui ra về "cái-gọi-là" QDNDVN
là không "thần thánh" như người CSVN vẽ vời, tự đánh bóng cho ḿnh, mà chỉ là
đạo ngụy quân nhận lănh vai tṛ xâm lăng để bành trướng cho chủ thuyết CS quốc
tế theo đơn đặt hàng của Soviet khi xâm lăng các quốc gia lân bang, để rồi sinh
mạng, xương máu người Việt Nam bị hy sinh vô ích và đất đai VN càng mất mát thêm
vào tay ngoại bang phương bắc, và rồi QDNDVN chỉ là thứ phỗng đá vô tích sự. Kẻ
thủ lợi vẫn chỉ là tầng lớp chóp bu trong đảng CSVN, thống lănh quê hương.
Sau hết, tôi xin chân thành cám ơn tác giả Dương Viết Điền đă bỏ nhiều thời giờ
đi sưu tầm, tham khảo để viết ra hai quyển sách này, cũng như cho tôi nguồn tài
liệu dùng trong sách tham khảo khi viết bài. Nói chung th́ việc xuất bản hai
quyển tài liệu trong giai đoạn miền nam bức tử này là một việc làm đáng ca ngợi,
nhất là cho thế hệ mai hậu có thêm nguôn sử liệu. Anh đă bỏ ra năm năm trời ṛng
ră để hoàn tất cuốn "Những Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân". Năm năm đi sưu tập dử
kiện cho một quyển sách b́nh thường như hồi kư cá nhân có thể là dài, nhưng nó
sẽ không dài cho một tập tài liệu cặn kẽ có đặc tính sử kư quư báu soi sáng ngàn
sau về bao anh hùng trong QLVNCH xă thân bảo vệ giang san. Tác giả DVĐ đă viết
bằng tim óc, anh viết bằng nước mắt quê hương trong ngục tù, và viết bằng kinh
nghiệm đau thương, nỗi nhục nhằn của chính ḿnh. Anh nguyện viết với ng̣i bút
tri ân những anh hùng vị quốc vong thân. Họ ra đi trong cái khí phách hào hùng
mà sách Dương Viết Điền so sánh với cái "Dũng" của người Đông Phương và chúng ta
đă thấy anh đă trích dẫn trong sách.
|