|
1.- ẢI NAM QUAN
Theo Đại Nam nhất thống chí, do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn xong dưới triều
vua Tự Đức (trị v́ 1847-1883), ải Nam Quan "cách tỉnh thành 31 dặm về phía bắc,
thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh,
tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà
Minh,<1> đến năm Ung Chính thứ 3 <1725> nhà Thanh,<2> án sát tỉnh Quảng Tây là
Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Đại Nam Quan", phía đông là một dải núi
đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm
119 trượng <3>, cửa quan đặt ở quăng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ
năm Ung Chính thứ 6 <1728> triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công
việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất
gia", dựng từ năm tân sửu <1781> đời Càn Long nhà Thanh.<4> Phía bắc cửa có "Chiêu
đức đài", đàng sau đài có "Đ́nh tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía
nam có "Ngưỡng đức đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dăy hành lang, mỗi
khi sứ bộ đến cửa quan th́ dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."(5)
Sau khi mô tả ải Nam Quan, các sử quan nhà Nguyễn đă đưa ra nhận xét như sau:
"Trấn Nam Quan không rơ bắt đầu từ triều đại nào, trong Nam sử cũng như Bắc sử đều
không có minh văn. Khoảng đời Lê Cảnh Hưng, <6> đốc trấn Lạng Sơn Nguyễn Trọng Đang
sửa lại "Ngưỡng đức đài", lập bia ghi việc đại lược nói: "Nước Việt ta có Ngũ Lĩnh,
quan ải trước ở đâu không rơ, là v́ diên cách thế nào không ghi đủ. Gần đây, lấy
địa giới châu Văn Uyên trấn Lạng Sơn làm cửa quan, cửa quan có "Ngưỡng đức đài"
không rơ dựng từ năm nào, có lẽ bắt đầu từ đời Gia Tĩnh nhà Minh." Văn bia ấy
nay vẫn c̣n."(7)
Dựa theo văn bản trên đây, ải Nam Quan gồm hai phần kiến trúc: Thứ nhất, phần kiến
trúc do chính quyền Trung Hoa xây dựng từ thế kỷ 16 gồm có cửa quan và những cơ
sở phụ thuộc phía bắc ải. Thứ nh́, phần kiến trúc do chính quyền Đại Việt xây
dựng phía nam ải, gồm có "Ngưỡng đức đài" và hai dăy hành lang tả hữu, và có bia
được lập vào thế kỷ 18 ghi địa giới hai nước.
Danh từ "Nam Quan" do triều đ́nh Trung Hoa đặt, có nghĩa là cánh cửa mở xuống
hay đi xuống phía nam. Như thế, khi xây dựng cửa ải Nam Quan, triều đ́nh Trung
Hoa chính thức xác nhận đây là biên giới phía nam của nước Trung Hoa, giống như
Nhạn Môn Quan (8) là cửa ải cực bắc Trung Hoa. Mỗi lần sứ quan một trong hai nước
bước qua cửa ải là tiến vào địa phận nước bên kia.
Dưới chế độ cộng sản, Mao Trạch Đông đổi tên ải Nam Quan thành "Mục Nam Quan" (cửa
nh́n xuống phía nam), c̣n Hồ Chí Minh th́ gọi là "Hữu Nghị Quan"(cửa hữu nghị),
nhưng hữu nghị như thế nào, ngày nay vừa mới có câu trả lời qua Hiệp ước về biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc ngày 30-12-1999.
2.- Vị TRÍ QUAN TRọNG CỦA ẢI NAM QUAN
Những nhà cầm quyền Trung Hoa nhiều lần đưa quân sang xâm lược nước ta, nhất là
trong những lúc nước ta loạn lạc, suy yếu. Quân đội xâm lược Trung Hoa tiến sang
nước ta bằng hai đường: đường biển và đường bộ.
Trên biển, năm 938, vua Nam Hán (9) là Lưu Cung sai con là Hoằng Tháo mang chiến
thuyền vượt biển, theo đường sông Bạch Đằng,(10) đă bị Ngô Quyền phục binh chận
đánh. Hoằng Tháo tử trận; Lưu Cung phải ra lệnh thu quân về.
Trên bộ, núi non trùng điệp giăng ngang biên giới giữa hai nước. Chỉ có một cuộc
hành quân duy nhất dọc duyên hải do Mă Viện (Ma Yuan, 14 TCN Ố 49) thực hiện năm
41, khi ông vâng lệnh Hán Quang Vơ (Han Kuang-wu, trị v́ 25-57) đem quân sang đánh
Hai Bà Trưng. Mă Viện đi dọc theo bờ biển Quảng Đông, xuống cổ Việt, xuyên qua
núi non vùng Đông Triều, tiến về phía tây, tấn công Hai Bà Trưng tại Mê Linh,
Châu Diên (vùng Phúc Yên, Sơn Tây ngày nay).(11)
Con đường nầy xa mà không tránh được núi non, nên về sau các nhà quân sự Trung
Hoa chọn con đường tương đối thuận lợi là các thung lũng chạy dọc theo các ḍng
sông, từ Trung Hoa qua Việt Nam giữa biên giới hai nước.
Có hai con đường chánh: Thứ nhất, từ Tư Minh, Bằng Tường (Quảng Châu, Trung Hoa),
theo thung lũng các sông nhỏ như Bằng Giang, Kỳ Cùng, vào Lạng Sơn, xuống thung
lũng sông Thương, đến Bắc Ninh, tiến qua Thăng Long. Thứ nh́, từ Vân Nam, theo
thung lũng sông Hồng, xuống Thăng Long. Đường thứ nh́ núi non hiểm trở, dài hơn
và khó đi hơn đường thứ nhất, nghĩa là đường thung lũng sông Hồng không thuận
tiện bằng đường thung lũng sông Thương.
Như thế, Lạng Sơn nằm ngay trên con đường chiến lược quan trọng chính của những
cuộc hành quân xâm lăng của Trung Hoa tiến vào Việt Nam. Muốn tiến vào Lạng Sơn,
quân đội bắc phương phải tiến ngang qua một ngọn đèo, và trên ngọn đèo đó là ải
Nam Quan. Ải Nam Quan nằm ở địa đầu của Lạng Sơn, là tiền đồn ngăn chận những
cuộc xâm lăng từ bắc phương và cũng là chiến địa của những trận giao tranh đẵm
máu, ghi dấu những chiến tích lẫy lừng của quân dân Việt Nam.
Xin hăy chú ư đến cách mô tả địa thế ải Nam Quan trong Đại Nam nhất thống chí:
"... phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân
núi xây gạch làm tường..." Hai bên là hai dăy núi, ở giữa là lối đi qua ải, phía
bắc chính quyền Trung Hoa xây công sự, phía nam, là các công tŕnh kiến trúc
nước ta. Đó là con đường đèo chật hẹp, nếu chận ngay tại đường đèo nầy, nghĩa là
chận ngay cửa ải, th́ bắc phương rất khó tiến quân.
* Cuộc tiến quân xâm lăng bằng đường Lạng Sơn đầu tiên diễn ra năm 981. Nguyên
vào năm 979, Đinh Bộ Lĩnh (trị v́ 968-979) bị ám sát, con là Đinh Tuệ, mới 6
tuổi lên ngôi tức Đinh Phế Đế (trị v́ 979-980). Nhận thấy t́nh h́nh Đại Cồ Việt
xáo trộn, năm 980 vua Trung Hoa là Tống Thái Tông (trị v́ 976-997) phong cho Hầu
Nhân Bảo làm Giao Châu thủy lục chuyển vận sứ, c̣n các tướng Tôn Toàn Hưng, Trần
Khâm Tộ, Lưu Trừng, Giả Thực làm binh mă đô bộ thự; tất cả sửa soạn quân lương
lên đường sang xâm lấn Đại Cồ Việt. Quân Tống chia làm hai đường thủy bộ tiến
vào nước ta năm 981 (tân tỵ). Đường bộ do Hầu Nhân Bảo cùng Tôn Toàn Hưng tiến
theo ngả Lạng Sơn, c̣n đường thủy do Trần Khâm Tộ và Lưu Trừng từ mặt biển tiến
vào bằng đường sông Bạch Đằng.
Nhân cơ hội nầy, Lê Hoàn tổ chức đảo chánh, tự ḿnh lên làm vua (trị v́
980-1005). Nhà vua tự làm đại tướng cầm quân chống giặc, cũng chia quân làm hai
hướng để ngăn cản đường tiến quân của nhà Tống. Sử sách chỉ viết rằng Hầu Nhân
Bảo bị phục kích ở ải Chi Lăng (Lạng Sơn). Trước khi muốn tiến đến Chi Lăng, có
thể phải qua ải Nam Quan. Hầu Nhân Bảo trúng kế trá hàng, bị bắt giết. Quân Việt
phản công mạnh mẽ, quân Tống thiệt hại nặng, hai bộ tướng của Hầu Nhân Bảo là
Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân bị bắt. Sau trận Chi Lăng, các lực lượng
thủy bộ của nhà Tống đều rút lui.
* Việc giao thiệp giữa Đại Việt và Trung Hoa căng thẳng trở lại khi tể tướng nhà
Tống là Vương An Thạch (1021-1086) muốn mưu t́m một chiến công ở ngoài biên
cương để hỗ trợ chính sách cải cách ở trong nước của ông ta. Triều đ́nh nhà Lư ở
Đại Việt ḍ biết được những chuẩn bị của Trung Hoa, gởi thư sang hỏi nhà Tống,
th́ bị d́m đi. Do đó, triều đ́nh Đại Việt quyết định cử Lư Thường Kiệt
(1019-1105) và Tôn Đản đem mười vạn quân theo hai đường thủy bộ tấn công trước,
đánh phá Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc Quảng Đông ngày nay), Ung Châu (tức Nam
Ninh thuộc Quảng Tây ngày nay), lấy của rồi rút lui.
Tháng chạp năm bính th́n (qua đầu năm 1077), vua Trung Hoa là Tống Thần Tông
(trị v́ 1067- 1085) sai Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ và Triệu Tiết làm phó chiêu
thảo sứ, đem quân sang trả thù, đồng thời ước hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp
(Chen-la tức Cambodia) cùng một lần đem quân đánh Đại Việt từ hai mặt. Các bộ
chính sử không viết rơ, nhưng theo giáo sư Hoàng Xuân Hăn trong sách Lư Thường
Kiệt, có thể Quách Quỳ đă qua đường Nam Quan, xuống Chi Lăng để tấn công thủ đô
Thăng Long.(12)
Lư Thường Kiệt chận quân Tống ở sông Như Nguyệt (sông Cầu chảy qua xă Như
Nguyệt, Bắc Ninh). Quách Quỳ chuyển quân đến khúc sông Phú Lương (sông Hồng ở
Thăng Long). Lư Thường Kiệt tiếp đánh nhưng thế giặc rất mạnh; máy bắn đá của
địch phá nhiều chiến thuyền, và làm cho hàng ngàn binh sĩ nước ta tử trận. Sợ
binh sĩ năn ḷng, Lư Thường Kiệt phao tin có thần nhân báo mộng cho bốn câu thơ:
"Nam quốc sơn hà nam đế cư, / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. / Như hà
nghịch lỗ lai xâm phạm, / Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. " (Hoàng Xuân Hăn
dịch:"Sông núi nước Nam vua Nam coi, / Rành rành phân định ở sách trời. / Cớ sao
lũ giặc sang xâm phạm, / Bay sẽ tan tành chết sạch toi. ")
Quân lính nghe được những câu thơ nầy đều hăng hái đánh giặc. Lực lượng nhà Tống
bị chận đứng. Hai bên cầm cự với nhau bất phân thắng bại. Triều đ́nh nhà Lư đề
nghị băi binh. Nhà Tống thấy khó thắng, đồng thời binh sĩ ở lại lâu không hạp
thủy thổ, đành chấp thuận.
* Làm chủ toàn bộ Trung Hoa sau khi vị vua cuối cùng của nhà Tống là Quảng Vương
(trị v́ 1278-1279) tự tử năm 1279, Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị
v́ 1260-1294) muốn mở mang đế quốc, t́m đường chinh phục các nước Đông Nam Á.
Quân Nguyên đă ba lần xâm lăng Đại Việt, trong đó hai lần quân Nguyên tiến qua
ải Nam Quan.
Lấy cớ mượn đường xuống Chiêm Thành, ngày 12-7 năm giáp thân (24-8-1284), Nguyên
Thế Tổ cử thái tử là Trấn Nam Vương Thoát Hoan (Toyan), với sự phụ tá của tướng
A Lư Hải Nha (Ariq-Qaya), cầm quân đánh Đại Việt. Quân Nguyên tấn công Đại Việt
bằng ba hướng khác nhau. Thứ nhất, Thoát Hoan dẫn bộ binh tiến vào nước ta bằng
đường Lạng Sơn, nhắm chiếm Thăng Long. Thứ nh́, tướng Nạp Tốc Lạt Đinh
(Nasirud-Din) dẫn bộ binh từ Vân Nam theo đường sông Chảy đi xuống, và thứ ba,
Toa Đô (Sogatu) dẫn thủy quân từ bờ biển Chiêm Thành đánh lên Đại Việt. Ba cánh
quân Nguyên tạo thành thế gọng kèm, giáp công ba mặt, ép quân Việt vào ở giữa.
Trước sức chống trả mănh liệt của quân dân Đại Việt, quân Nguyên thất bại, Thoát
Hoan rút lui cũng bằng đường bộ, qua Vạn Kiếp,(13) th́ bị tướng Nguyễn Khoái đổ
quân ra tiêu diệt. Các tướng Nguyên phải dùng đồ đồng bao bọc Thoát Hoan, rồi bỏ
ông ta lên xe đẩy về biên giới, lại bị tướng Trần Quốc Nghiện phục binh lần nữa,
mới thoát thân.
Nguyên Thế Tổ rất căm giận, ra lệnh động binh trở lại vào tháng 2 năm mậu tuất
(1287). Tổng chỉ huy quân Nguyên vẫn là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, dưới quyền có
các tướng Áo Lỗ Xích (Auruyvci), Ô Mă Nhi (Omar), Tŕnh Bằng Phi (một viên tướng
nhà Tống đầu hàng nhà Nguyên), Phàn Tiếp, Trương Văn Hổ. Lần nầy, quân Nguyên
cũng tấn công nước ta bằng đường bộ và đường biển. Trên bộ, quân Nguyên chia làm
hai cánh: Thoát Hoan từ Quảng Tây tiến xuống Lạng Sơn, và Ái Lỗ (Aruq) từ Vân
Nam theo đường sông Hồng tràn qua. Đường biển, Ô Mă Nhi và Phàn Tiếp dẫn quân đi
trước, Trương Văn Hổ chuyên chở lương thực theo sau.
Không khác ǵ lần trước, quân Nguyên lại thất bại, thủy quân vận lương bị đánh
tan ở Vân Đồn (Quảng Yên), Thoát Hoan rút quân bằng đường bộ. Tại cửa ải Nội
Bàng,(14) tướng Phạm Ngũ Lăo phục binh làm nhiều đoạn, đổ quân ra đánh đuổi
Thoát Hoan. Các tướng Trương Quân, A Bát Xích, Trương Ngọc tử trận; chỉ có Thoát
Hoan, Trịnh Bằng Phi và Áo Lỗ Xích trở về được Trung Hoa.
* Năm 1407, gia đ́nh Hồ Quư Ly, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt
ở Hà Tĩnh. Quân Minh không giết cha con Hồ Quư Ly mà chỉ giải về Trung Hoa.
Trong số những vị quan bị giải theo gia đ́nh Hồ Quư Ly, có Nguyễn Ứng Long, tức
Nguyễn Phi Khanh, thân phụ của Nguyễn Trăi. Nguyễn Trăi bịn rịn đưa tiễn cha lên
tận ải Nam Quan. Tại đây, Nguyễn Phi Khanh nói với con: "Con phải về nhà mà lo
trả thù cho cha, rửa thẹn cho nước, chứ đi theo mà khóc lóc làm ǵ."(15) Sau đó,
Nguyễn Trăi đă giúp Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh và đạt được thành công
năm 1428.
* Tháng 6 năm đinh mùi (1427), nhà Minh cử Quảng Tây Chinh Nam Đại tướng quân
Trấn Viễn Hầu Cố Hưng Tổ đem 5 vạn quân từ Quảng Tây sang cứu viện quân Minh
đang thất bại trước sức phản công của nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lănh đạo. Cố
Hưng Tổ đi vào cửa ải Nam Quan (Pha Lũy), bị hai tướng Trần Lựu và Lê Bôi đánh
tan phải chạy về.
Nhà Minh liền cử Tổng binh An Viễn Hầu Liễu Thăng đem 10 vạn tinh binh vượt ải
Nam Quan (Pha Lũy) tháng 9 cùng năm. Trần Lựu liệu thế không chống nổi, phải rút
lui về ải Chi Lăng. Tại đây, tướng Lê Sát sai Trần Lựu cầm quân ra trận, rồi giả
thua bỏ chạy. Liễu Thăng rượt theo, lọt vào ổ phục binh, bị nghĩa quân giết chết
ở núi Mă Yên (tức núi Yên Ngựa).(16)
* Tháng 8 năm canh tư (1540), Thái Tông Mạc Đăng Doanh (trị v́ 1530-1540) qua
đời, con là Phúc Hải lên thay tức Mạc Hiến Tông (trị v́ 1540-1546) . Cuối năm
đó, nhà Minh cử Cừu Loan và Mao Bá Ôn đem quân đến cửa ải Nam Quan, buộc họ Mạc
phải tự đến cửa ải đầu hàng.
Lúc đó, thượng hoàng Thái Tổ Mạc Đăng Dung (trị v́ 1527-1529) thay cho cháu (vua
Mạc Hiến Tông) lên ải Nam Quan thương thuyết vào tháng 11 năm canh tư (1540).
Nội dung cuộc ḥa hội nầy không được ghi chép cụ thể, nhưng chắc chắn trong thế
yếu, Mạc Đăng Dung phải chịu nhượng bộ và hối lộ để Mao Bá Ôn chịu thỏa hiệp lui
quân.
Về vấn đề biên giới, trong tờ tŕnh lên triều đ́nh nhà Minh ngày 20 tháng 10 năm
tân sửu (1451), Mao Bá Ôn viết rằng Mạc Đăng Dung đồng ư "trả lại đất bốn động
đă chiếm".(17) Theo lối nói của Mao Bá Ôn, có nghĩa là bốn động đó vốn thuộc
Trung Hoa, bị Đại Việt chiếm đóng, nay nhà Mạc chịu trả lại. Tuy nhiên, mục "Bản
kỷ tục biên" bộ Đại Việt sử kư toàn thư lại viết khác, cho rằng Mạc Đăng Dung đă
"dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh
An, trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu."(18) Dầu đă cắt bốn hay năm
động của thổ dân giao cho Trung Hoa, nhà Mạc vẫn giữ ải Nam Quan thuộc về Đại
Việt.
* Năm 1788, theo lời cầu viện của mẫu thân của Lê Chiêu Thống (trị v́
1786-1789), vua Trung Hoa là Thanh Cao Tông tức Càn Long (Ch'ien-lung, trị v́
1736-1795) cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị cầm đại quân sang Đại Việt, đi
bằng ba ngả: Tôn Sĩ Nghị cùng Hứa Thế Hanh vào cửa Nam Quan, qua Lạng Sơn đi
xuống, Sầm Nghi Đống đi qua đường Cao Bằng, và đề đốc Vân Nam Ô Đại Kinh vào
đường Tuyên Quang.(19) Đoàn quân viễn chinh nhà Thanh bị vua Quang Trung (trị v́
1788-1802) đánh tan tác, phải chạy về vào đầu năm kỷ dậu (1789).
* Từ ngày 17-2-1999, Cộng Ḥa Nhân Dân Trung Hoa tung trên 200.000 quân tấn công
Việt Nam ở sáu tỉnh biên giới: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn
và Quảng Ninh, và đă chiếm được các thị xă Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn. Bộ binh
Trung Hoa qua Lào Cai bằng thung lũng sông Hồng, qua Cao Bằng theo thung lũng
sông Bằng (Bằng Giang), và qua Lạng Sơn theo thung lũng sông Kỳ Cùng, vào ải Nam
Quan. Sau khi rút quân ngày 5-3-1979, quân Trung Hoa vẫn chiếm giữ vùng đất phía
nam ải Nam Quan, và trạm hải quan (quan thuế) của Việt Nam phải dời xuống phía
nam ải nầy, sâu trong lănh thổ nước ta.
Như thế, cho đến cuối thế kỷ 20, ải Nam Quan là cửa ải chính thức phân chia ranh
giới giữa hai nước Việt Nam và Trung Hoa. Những cuộc xâm lăng của các triều đ́nh
Trung Hoa đều bị đẩy lui. Ải Nam Quan trở thành biểu tượng độc lập thiêng liêng
của dân tộc Việt Nam. Quốc lộ 1 xuyên suốt từ bắc xuống nam nước ta, bắt đầu từ
ải Nam Quan xuống mũi Cà Mau. Khi xây dựng quốc lộ 1, cột mốc đầu tiên đặt ở Nam
Quan, được đánh dấu là cột mốc số 0. Những bài học lịch sử hay địa lư Việt Nam
đều mở đầu bằng câu: "Nước Việt Nam trải dài từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau."
3.- HAI HIỆP ƯỚC VỀ BIÊN GIỚI
Từ tháng 5-1975, nước Việt Nam do đảng Cộng Sản (CS) cai trị. Đảng CS tổ chức và
điều khiển nhà nước Cộng Ḥa Xă Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).(20) Từ khi
đảng CSVN doc Hồ Chí Minh thành lập ở Hương Cảng năm 1930, đảng CSVN dựa vào hai
thế lực hậu thuẫn chính: đảng CS Liên Xô và đảng CS Trung Hoa (CSTH). Trung Hoa
nằm sát biên giới Việt Nam nên đảng CS nước nầy đă giúp đỡ hữu hiệu cho đảng
CSVN, nhưng lợi bao nhiêu th́ cũng sẽ hại bấy nhiêu.
Sau khi chiếm được lục địa Trung Hoa, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Ḥa
Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) ngày 10-10-1949. Từ đó, CHNDTH chẳng những gởi cán
bộ, quân đội, vũ khí sang giúp CSVN, mà c̣n cho quân đội CSVN chạy trốn sang
biên giới Trung Hoa khi bị quân đội Quốc Gia và quân đội Pháp truy đuổi trong
cuộc chiến tranh 1946-1954.(21)
CSTH dần dần đưa người đến định cư và tràn lấn qua biên giới Việt Nam. Việt Minh
cộng sản đồng lơa với hành động trên, để dễ trà trộn, lẫn trốn khi lâm nguy. Từ
đó, người Hoa hiện diện càng ngày càng đông dọc theo biên giới Hoa Việt. Theo
tiết lộ của ông Vũ Khoan, Bộ trưởng Bộ Thương mại Hà Nội, trong bài viết "Mốc
mới trong quan hệ Việt Nam Ố Trung Quốc", đăng trên tạp chí Cộng Sản, số Tết
Canh Th́n (2000) th́ ngay từ lúc đó (1949), đă có "một số lần ... trao đổi y
kiến, đàm phán về vấn đề biên giới."(22)
Sau khi cưỡng chiếm được miền Nam năm 1975, cộng sản Hà Nội không c̣n theo chính
sách ngoại giao đu dây thăng bằng giữa Liên Xô và CHNDTH, mà ngă hẳn về phía
Liên Xô. Ngày 3-11-1978, Lê Duẩn (1907-1986, bí thư thứ nhất đảng Lao Động từ
1960 đến 1975, tổng bí thư đảng CS từ 1976-1986) sang Liên Xô và kư với Leonid
Brezhnev (1906-1982, bí thư thứ nhất đảng CSLX 1964-1966, tổng bí thư 1966-1982)
, Hiệp ước Hai mươi lăm năm Hỗ tương và Pḥng thủ giữa hai nước.
Dựa vào hậu thuẫn của Liên Xô, cộng sản Việt Nam xua quân xâm lăng Cambodia,
chiếm thủ đô Phnom Penh ngày 7-1-1979. Việc làm nầy của CSVN nhắm hai mục đích:
đối ngoại là bành trướng ảnh hưởng qua Cambodia để mưu làm bá chủ Đông Dương, và
kiếm đường đánh xuống Thái Lan; đối nội là tung các sư đoàn miền Nam qua
Cambodia. Các sư đoàn nầy gồm những thanh niên mới tuyển "nghĩa vụ quân sự" ở
miền Nam sau 1975. Tung thanh niên miền Nam qua Cambodia để làm tiêu hao tiềm
lực miền Nam, khiến cho dân chúng miền Nam phải lo chuyện chiến tranh, mà không
chống đối chính sách thất nhân tâm của Hà Nội.
Nhà cầm quyền Cambodia lúc đó do đảng CSTH đỡ đầu. Viện cớ Việt Nam xâm lăng
Cambodia, CHNDTH quyết định trả đũa và "dạy" cho Việt Nam một bài học. Bài học
nầy không phải thuần túy v́ vấn đề Cambodia. Bài học nầy c̣n liên hệ đến hiệp
ước Việt Xô năm 1978, v́ khi bỏ CHNDTH chạy theo Liên Xô, tập đoàn lănh đạo CS
Hà Nội đă mặc nhiên bỏ luôn những cam kết ngầm với CSTH khi nhận những viện trợ
to lớn của Trung Hoa để tiến hành hai cuộc chiến 1946-1954 và 1954-1975, mà con
số nầy lên đến 20 tỷ Mỹ kim. (xin xem sau)
Ngày 17-2-1979, CHNDTH đưa trên 200.000 quân tấn công CHXHCNVN ở sáu tỉnh biên
giới. Có nơi quân CHNDTH tiến sâu vào nội địa Việt Nam 40 cây số. Sau khi phá
nát vùng nầy,(23) quân Trung Hoa rút về ngày 5-3-1979. Điều đáng nói là trong
khi đánh nhau, quân CHNDTH đă phá hủy những cột mốc biên giới có từ thời Pháp
thuộc, rồi dựng lại những cột mốc biên giới mới. Trong khi dựng lại, quân cộng
sản Trung Hoa đă dời nhiều cột mốc biên giới sâu vào lănh thổ Việt Nam. Sau khi
chiến tranh chấm dứt, quân đội CSTH vẫn chiếm giữ một số địa điểm hiểm trở chiến
lược trong nội địa Việt Nam. Nói cách khác, quân đội CSTH đă nới rộng biên giới
Trung Hoa về phía nam, cũng có nghĩa là Việt Nam mất đi một số đất đai đáng kể.
V́ vậy, tại tỉnh Lạng Sơn, trụ sở mới của hải quan (quan thuế) biên giới của
Việt Nam phải dời về phía nam "Hữu Nghị Quan" (ải Nam Quan) khoảng hơn nửa cây
số.
T́nh h́nh thế giới xoay chuyển mạnh vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90. Chế
độ cộng sản tan ră ở các nước Đông Âu vào năm 1989 và 1990 như Ba Lan, Hung Gia
Lợi, Bảo Gia Lợi, Tiệp Khắc, Đông Đức, Nam Tư ... Sau đó, chế độ cộng sản Liên
Xô, hậu thuẫn vững vàng của CHXHCNVN, cũng bị sụp đổ vào năm 1991.
Lúc đó, các nhà lănh đạo đảng CSVN liền thay đổi chính sách ngoại giao: một mặt
cầu thân trở lại với CHNDTH và mặt khác kiếm cách giao hảo với Hoa Kỳ, là nước
mà trước đây CSVN đă tố cáo là "tên đế quốc đầu sỏ" trên thế giới, để làm đối
trọng với CHNDTH. Đồng thời do những khó khăn về kinh tế, CSVN đưa ra chủ trương
mở cửa, trở lại nền kinh tế thị trường, nhưng vẫn cương quyết theo "định hướng
xă hội chủ nghĩa".
Tổng bí thư đảng CSVN là Nguyễn Văn Linh (giữ chức từ 1986-1991), cùng Phạm Văn
Đồng (1906-2000), Đỗ Mười, bí mật sang CHNDTH thương thuyết vào tháng 9-1990.
Sau đó Đỗ Mười giữ chức từ 1991-1998), mới lên thay Nguyễn Văn Linh làm tổng bí
thư, cùng Vơ Văn Kiệt, thủ tướng CSVN, sang Bắc Kinh ngày 5-11-1991 chính thức
tái lập bang giao giữa hai nước. "Bài học" mà Đặng Tiểu B́nh đă "dạy" cho CSVN
nay mới hiệu ứng.
Đang là "đồng chí" với nhau, hai bên xích mích đánh nhau, lại trở lui cầu thân
th́ phải xuống nước, nhượng bộ. Đảng CSVN và nhà cầm quyền CSVN có ǵ trong tay
để nhượng bộ, ngoài một vấn đề mà từ lâu nay tất cả những nhà cầm quyền Trung
Hoa, chứ không riêng ǵ CSTH, luôn luôn nhắm đến, đó là việc lấn biên, giành
đất, giành biển.
Ở thế bí, lại thêm trước đây Hồ Chí Minh (1890?-1969) đă từng đồng lơa để cho
CSTH tràn lấn miền biên giới, Phạm Văn Đồng đă từng nh́n nhận Hoàng Sa và Trường
Sa thuộc lănh hải Trung Hoa, rồi cuộc chiến 1979 đă tiêu hủy toàn bộ vùng Cao
Bằng, Lạng Sơn, nên ban lănh đạo mới của đảng CSVN đành phải thuận cắt đất theo
sự áp đặt của CSTH để sống c̣n và duy tŕ địa vị. Nhân cơ hội nầy, CHNDTH gây
sức ép càng ngày càng lớn đối với CHXHCNVN. Kết quả của sức ép nầy là hai hiệp
ước về biên giới ra đời trong ṿng một năm.
Ngày 30-12-1999, tại Hà Nội, bộ trưởng Ngoại giao CHXHCNVN là Nguyễn Mạnh Cầm và
bộ trưởng Ngoại giao CHNDTH là Đường Gia Truyền (Tang Jianxuan) cùng kư Hiệp ước
về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Hiệp ước nầy được quốc hội Bắ
Kinh thông qua ngày 29-4-2000 và quốc hội Hà Nội thông qua 9-6-2000. Đặc biệt là
khi thông qua hiệp ước biên giới nầy, chỉ một số lănh đạo cao cấp trong quốc hội
Hà Nội mới đọc được nội dung hiệp ước, c̣n đại đa số dân biểu không biết ǵ cả,
chỉ thông qua theo lệnh của đảng CSVN.(24)
Việc chọn lựa Hà Nội làm địa điểm kư kết hiệp ước c̣n nói lên một sắp đặt ngấm
ngầm về ngoại giao, để cho bên ngoài thấy rằng CSVN t́nh nguyện mời CSTH đến tận
nhà (Hà Nội) để kư kết hiệp ước, chứ CSTH không thúc ép CSVN phải qua Bắc Kinh
để làm việc nầy.
Ngày 25-12-2000, tại Bắc Kinh, đại diện hai nước Việt Nam và Trung Hoa (chưa
tiết lộ danh tánh) đă kư Hiệp ước phân định lănh hải, phân chia quyền lợi trên
vịnh Bắc Việt, dưới sự chứng kiến của chủ tịch CHXHCNVN là Trần Đức Lương và chủ
tịch CHNDTH là Giang Trạch Dân.(25) Hiệp ước nầy chưa được đưa ra quốc hội hai
nước để thông qua.
Ngày 27-12-2001, thứ trưởng Ngoại giao Hà Nội là Lê Công Phụng cùng với đại sứ
CHNDTH tại Hà Nội, đến thị trấn Mông Cái (cửa ngơ Mông Cái - Đông Hưng) thuộc
tỉnh Quảng Ninh làm lễ xây C_T MỐC đánh dấu biên giới mới trên đất liền mà hai
bên đă kư kết ngày 30-12-1999. Cùng lúc đó, thứ trưởng ngoại giao CHNDTH là Wang
Yi tham dự một buổi lễ tương tự tại thị trấn Đông Hưng thuộc Trung Hoa.(26) Hai
nhà cầm quyền dự tính sẽ đóng khoảng 1500 cột mốc dọc biên giới mới giữa hai
bên.(26)
Điểm đặc biệt nữa là các nhà lănh đạo đảng CSVN đă giấu kỹ không cho dân chúng
biết nội dung các hiệp ước trên đây trước khi kư, trong khi kư, và sau khi kư,
cũng không cho biết ai đă đứng ra kư kết hiệp ước. Phía CHNDTH tiết lộ là ông
Nguyễn Mạnh Cầm đă kư kết Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung
Quốc, chứ phía Việt Nam không nói ǵ hết. Cho đến nay, ngoài những kẻ lănh đạo
đảng CSVN, chưa có người Việt Nam nào đọc được văn bản cụ thể về hai hiệp ước
đó.(27)
Sự giấu diếm nầy chứng tỏ có điều ǵ man trá đàng sau cuộc thương thuyết để phân
chia lănh thổ và lănh hải. Chắc chắn sự man trá nầy liên hệ đến quyền lợi riêng
tư của một thiểu số lănh đạo đảng CSVN, mới không công bố cho toàn dân biết.
4.- ẢI NAM QUAN ĐĂ MẤT
Tuy nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội không cho dân chúng biết nguyên văn hai hiệp
ước, nhưng công việc sửa soạn các chi tiết để thi hành hiệp ước, như đóng cột
mốc, thông báo cho các đơn vị chuyên môn và hành chánh địa phương vẽ lại bản đồ,
đă để lộ ra ngoài một số tin tức quan trọng:
* Trước Đại hội 9 đảng CSVN (từ 19 đến 22-4-2001), ông Đỗ Việt Sơn, một đảng
viên CS lăo thành (54 tuổi đảng, 78 tuổi đời), ở số 26/14-125 đường Tô Hiệu, Hải
Pḥng, đă gởi thư vào tháng 2-2001 công khai đặt vấn đề Việt Nam nhượng bộ quá
nhiều cho Trung Quốc trong hai hiệp ước trên, và yêu cầu Quốc hội và Đại hội
đảng CSVN công khai thảo luận vấn đề nầy. Thư nầy được phổ biến hạn chế, về sau
được nhắc lại trong kháng thư ngày 18-11-2001 của 20 cử tri gởi các chức quyền
Việt Nam.
* Ngày 18-11-2001, 20 cử tri cùng kư một kháng thư gởi cho các chức quyền trong
nước phản đối việc kư kết các hiệp ước trên. Kháng thư mang cữ kư của những đảng
viên kỳ cựu như Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang,
Hoàng Tiến, Trần Dũng Tiến, Trần Quang Lê, Nguyễn Ngọc Diệp, Bùi Long...Đa số
đều trên 50 năm thâm niên trong đảng CSVN. Kháng thư cho biết Hiệp ước về biên
giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc, phía Việt Nam đă nhượng cho Trung Quốc
720 km2 ở hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, và Hiệp ước phân định lănh hải Vịnh Bắc
Việt như sau: 53,23% cho Việt Nam, và 46,77% cho Trung Quốc.(28)
* Trong một bản điều trần trước Viện Pháp Á (Institut Franco-Asiatique), bác sỹ
Trần Đại Sỹ, Giám đốc Trung Hoa sự vụ Viện Pháp - Á ở Paris, cho biết rằng sau
khi hai bên kư kết hiệp ước trên đất liền ngày 30-121999, th́ vào ngày 9-1-2000,
ông được hai người bạn là hai kư giả Trung Hoa thông báo cho ông biết rằng theo
tinh thần hiệp ước mới kư kết, Việt Nam nhượng cho Trung Quốc 789 km2, thuộc hai
tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn (chứ không phải 720 km2). (29)
Nếu tính theo diện tích của toàn thể Việt Nam là 330.000 km2 (số tṛn), th́ diện
tích đất mà CSVN đă nhượng cho CSTH (789 km2) lên đến khoảng trên 0.2% (trên 2
phần ngàn). Nếu tính theo diện tích của toàn tỉnh Lạng Sơn là 8.178 km2, th́ số
đất nhượng gần 1/10 diện tích tỉnh Lạng Sơn. Đường biên giới giữa Việt Nam và
Trung Hoa dài khoảng 1.300 cây số, trong đó đường biên giới giữa Lạng Sơn và
Trung Hoa dài 253 cây số. Nếu tính dọc theo toàn bộ đường biên giới tỉnh nầy,
th́ CSVN nhượng cho Trung Hoa trung b́nh 3 cây số sâu vào nội địa Việt Nam. (253
km X 3 km = 759 km2).
Dần dần, những tin tức được tiết lộ trên đây đă được kiểm chứng cụ thể:
* Trong một chuyến công tác cho Viện Pháp Á vào tháng 8-2001, bác sĩ Trần Đại Sỹ
đă về Việt Nam. Ông lên vùng biên giới và xin đi thăm ải Nam Quan, nhưng bị nhà
cầm quyền Việt Nam cấm đi. Ông phải qua Trung Hoa, rồi mới đến ải Nam Quan. Ông
tận mắt thấy ải Nam Quan nằm sâu trong đất liền của Trung Hoa 5 km. Ông Trần Đại
Sỹ đă sáng tác một bài thơ bằng chữ Nho, đề ngày 6-9-2001, khắc trên bia đá và
đặt tại sườn núi ải Nam Quan, mở đầu bằng những câu như sau: "Thử địa cựu Nam
Quan,/ Biên địa ngă cố hương./ Kim thuộc Trung Quốc thổ,/ Khấp, khốc, kư đoạn
trường..." (Ông Trần Đại Sỹ tự dịch thành thơ như sau: "Đất nầy xưa gọi Nam
Quan,/ Vốn là biên địa cố hương của ḿnh./ Hiện nay là đất Trung nguyên,/ Khóc
chảy máu mắt, đoạn trường ai hay.)(29)
Dù nhà cầm quyền CSVN chưa tiết lộ nội dung hiệp ước về biên giới, việc bác sĩ
Trần Đại Sỹ đến thăm tận nơi ải Nam Quan, chứng kiến tận mắt cửa ải nầy nay nằm
sâu trong lănh thổ Trung Hoa 5 cây số, là bằng chứng cụ thể hiển nhiên và rơ
ràng rằng vùng đất Nam Quan đă thật sự ra khỏi lănh thổ Việt Nam. Ngoài ra, nếu
ải Nam Quan nằm sâu trong đất liền CHNDTH 5 cây số, có nghĩa là hầu như vùng đất
phía bắc sông Kỳ Cùng và Bằng Giang đă thuộc CHNDTH.
Thời đại ngày nay là thời đại nguyên tử, vũ khí chiến tranh tối tân, hiện đại.
Tuy nhiên, trong những cuộc đụng độ địa phương, và nhất là trong trận địa chiến,
địa h́nh chiến sự vẫn giữ một vai tṛ quan trọng trong cách bố trí chiến đấu.
Như trên đă nói, qua cách mô tả trong Đại Nam nhất thống chí, địa thế ải Nam
Quan rất hiểm trở, chỉ có một đường đèo nhỏ hẹp, nằm giữa hai bên là hai dăy
núi. Ải Nam Quan và vùng đất hiểm trở phía bắc sông Kỳ Cùng là vị trí và địa thế
quân sự chiến lược như là một tiền đồn vững vàng ở địa đầu đất nước để chống lại
những cuộc hành quân trên bộâ từ phía bắc xuống, hay ít ra cũng làm chậm lại
bước tiến của địch thủ.
Trong cuộc chiến năm 1979, quân CHNDTH tấn công 6 tỉnh biên giới, nhưng chỉ tràn
ngập đông đảo chiếm 3 thị xă Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn v́ ba vùng nầy có thung
lũng chạy dọc theo các ḍng sông nên dễ chuyển quân. Trong ba thị xă trên đây,
Lạng Sơn gần Hà Nội nhất và dễ xuống Hà Nội theo đường sông Thương. Đường bộ từ
tỉnh lỵ Lạng Sơn về tới Hà Nội dài dưới 160 km. Với phương tiện giao thông ngày
nay, vượt qua đoạn đường nầy chỉ cần vài giờ đồng hồ. Nếu chuyển quân với trang
bị đầy đủ cũng chẳng tốn nhiều thời gian. Do đó, vị trí chiến lược ải Nam Quan
vô cùng quan trọng cho sự pḥng thủ Hà Nội. Nay nhà cầm quyền Trung Hoa chiếm
được cửa ải Nam Quan, nghĩa là chiếm được đoạn đèo thông thương bắc nam tại vùng
nầy. Như thế, họ đă loại bỏ được chướng ngại đầu tiên khi xâm nhập nước ta, mà
tổ tiên họ đă phải tốn bao nhiêu xương máu để vượt qua, nhưng không có cách ǵ
giữ được, và cuối cùng đều bị đẩy lui về phía bên kia cửa ải.
* Theo hiệp ước Pháp Hoa ngày 26-6-1887, đường ranh giới hải phận (Zone
Économique Exclusive) giữa Việt Nam và Trung Hoa tại vịnh Bắc Việt được phân
định theo kinh tuyến Greenwich 108 độ 03 phút 18 giây, tính ra Việt Nam được 62%
và Trung Hoa 38% vịnh Bắc Việt.(30)
CHNDTH không chấp nhận đường phân chia nầy, v́ cho rằng hiệp ước 1887 bất công,
và đ̣i phân chia lại vịnh Bắc Việt. CHXHCNVN v́ yếu thế đành nhượng bộ. Xin hăy
nghe người trong cuộc, ông Lê Công Phụng, trưởng đoàn thương thuyết CSVN, kể
lại: "Trong quá tŕnh đàm phán, hai bên đă vận dụng các nguyên tắc như sau để
giải quyết: một là căn cứ vào quy định của công ước Luật biển 1982 của Liên Hiệp
Quốc <31> cũng như các nguyên tắc luật pháp quốc tế và tập quán được công nhận
rộng răi; hai là hai bên tính đến cac đặc thù của vịnh Bắc Bộ như sự hiện diện
của các đảo, chiều dài bờ biển v.v...; ba là, việc giải quyết vấn đề phân định
phải xuất phát từ thực trạng cũng như nhu cầu phát triển quan hệ giữa hai nước;
bốn là bảo đảm nguyên tắc công bằng và chiếu cố lợi ích của nhau. Về diện tích,
phía Trung Quốc kiên tŕ chủ trương đại thể chia đôi,<32> thừa nhận ta có thể
nhỉnh hơn nhưng không đáng kể. Ta chủ trương giải pháp công bằng phải phù hợp
với các hoàn cảnh hữu quan trong vịnh như sự hiện diện của các đảo của ta,<33>
chiều dài bờ biển của ta lớn hơn v.v...." (Bài trên tạp chí Cộng Sản đă dẫn.)
Cuối cùng rồi CSVN phải thuận theo những áp đặt của CSTH. Kết quả là phân chia
hải phận mới không c̣n là đường thẳng cũ, mà là một đường găy khúc nối liền bởi
những đường thẳng ngắn dọc theo các hải đảo. So với đường kinh tuyến 108 độ 03
phút 18 giây, th́ đường phân chia mới nầy, phía bắc đảo Bạch Long Vỹ lấn một ít
về phía Trung Hoa, nhưng từ đảo nầy trở xuống th́ lấn khá nhiều qua phía Việt
Nam.
Vịnh Bắc Việt rộng 126.250 km2. So với cách phân chia lănh hải ngày 26-6-1887
thời Pháp thuộc (Việt Nam được 62%), cách phân chia lănh hải ngày 25-12-2000
(Việt Nam được 53,23%) đă làm cho Việt Nam mất trên 8% diện tích vịnh Bắc Việt,
tương đương với khoảng trên 10.000 km2.
Theo đường phân chia mới trên vịnh Bắc Việt, đảo Bạch Long Vỹ chỉ c̣n cách hải
phận CSTH 15 hải lư. Đảo nầy rộng khoảng 3 km2, tuy nhỏ nhưng Bạch Long Vỹ rất
quan trọng về kinh tế cũng như về quốc pḥng.
Về kinh tế, vùng biển khu vực Bạch Long Vỹ có nhiều hải sản, nhất là bào ngư, có
giá trị dinh dưỡng cao mà người Việt rất thích dùng. Hiện nay, người ta được
biết đáy biển vùng nầy có nhiều tiềm năng về chất đốt mà chưa được khai thác.
Về quốc pḥng, Bạch Long Vỹ giữ vị trí chiến lược tiền tiêu để bảo vệ Bắc Việt.
Thời Pháp thuộc, Pháp đă đặt một đơn vị hải quân ở đây kiểm soát tàu bè đi lại
trên vịnh Bắc Việt. Theo tuyên truyền của CSBV, trong thời gian chiến tranh
trước năm 1975, "quân và dân đảo đă bắn rơi 23 máy bay Mỹ, đánh đuổi 3 tàu chiến
xâm phạm chủ quyền của ta."(34)
Trong bài viết của ḿnh, ông Lê Công Phụng cũng nêu rơ điểm nầy: "Phần vịnh phía
ta có khoảng 1300 ḥn đảo ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long Vỹ nằm cách đất liền
nước ta khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng 130 km. Vịnh có vị
trí chiến lược quan trọng đối với Việt Nam và Trung Quốc về an ninh và quốc
pḥng..." (bài đă dẫn).
Đảo Bạch Long Vỹ vừa nhỏ, vừa chơ vơ nằm ngoài biển cả, cách nước ta khoảng 110
cây số và cách hải phận Trung Hoa theo hiệp ước mới chỉ có khoảng 15 hải lư,
nghĩa là nằm trong mối đe dọa thường trực của hải quân CSTH. Vị trí chiến lược
nầy sẽ rơi vào tay CSTH dễ dàng nếu xảy ra tranh chấp giữa hai bên.
Một phần v́ tin tức đă bị tiết lộ ra ngoài, một phần v́ liên hệ đến tàu thuyền
quốc tế qua lại trên biển, nên do sự thúc bách của CHNDTH muốn công khai hóa sự
thừa nhận chủ quyền lănh hải của Trung Hoa, ông Lê Công Phụng, thứ trưởng Ngoại
giao CSVN, đă viết bài "Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và hiệp định hợp tác
nghề cá giữa Việt Nam Ố Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ", tiết lộ cho biết một số
điểm trong hiệp ước nầy trên tạp chí Cộng Sản, số 2 tháng 1-2001. Ông nầy tŕnh
bày lại tiến tŕnh đàm phán và không cho biết ǵ nhiều hơn những điều báo chí đă
viết ra, và mỉa mai nhất là ông ta cho rằng CHXHCNVN đă thắng lợi v́ "Ta hơn
Trung Quốc 6,46% tức khoảng 8205 km2." |